Ngân hàng Nhà nước: Ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát là mục tiêu căn cơ và lâu dài
Ngân hàng SCB bác bỏ tin đồn sai sự thật về lãnh đạo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước: Mọi khoản tiền gửi tại Ngân hàng SCB đều được Nhà nước đảm bảo |
Chính sách tiền tệ góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô
Nền kinh tế thế giới thời gian vừa qua có nhiều biến động khó lường ảnh hưởng lớn đến trong nước. Trong khi đó, kinh tế Việt Nam có độ mở cửa lớn, sản xuất phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu trong khi giá cả thế giới tăng cao và có thể tiếp tục tăng nếu như diễn biến lạm phát thế giới chưa kiểm soát được.
Bên cạnh đó, theo đánh giá của quốc tế, kỳ vọng lạm phát đối với Việt Nam là tương đối lớn. Với nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế, Ngân hàng Nhà nước không thể chủ quan với diễn biến của lạm phát và không thể chỉ kiểm soát lạm phát năm nay mà còn các năm sau. Đó là mục tiêu kiên định trong dài hạn.
Nghị quyết 43 của Quốc hội và Nghị quyết 11 của Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho ngành ngân hàng điều hành ổn định lãi suất và phấn đấu giảm lãi suất 0,5 - 1% trong 2 năm triển khai chương trình phục hồi. Đây là nhiệm vụ khó khăn trong bối cảnh các nước trên thế giới thắt chặt chính sách tiền tệ. Trong nước, chỉ 8 tháng năm 2022, tín dụng toàn hệ thống đã tăng gần 10%, là mức cao so với nhiều năm trước đây.
Cùng với đó, Ngân hàng Nhà nước và hệ thống ngân hàng đang phải thực hiện tái cơ cấu hệ thống trong giai đoạn thứ 3. Nhiệm vụ quan trọng là đảm bảo ổn định an toàn hoạt động hệ thống ngân hàng và triển khai các giải pháp theo Nghị quyết 43 của Quốc hội thông qua gói hỗ trợ lãi suất 2% với quy mô 40.000 tỷ từ nguồn ngân sách nhà nước để hỗ trợ nền kinh tế.
Hiện nay, việc điều hành tín dụng của Ngân hàng Nhà nước đang được sự quan tâm lớn của dư luận, doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng, chuyên gia, báo chí... Vấn đề đặt ra đối với Ngân hàng Nhà nước là phải giải bài toán tổng thể, bởi chính sách điều hành hôm nay không chỉ ngắn hạn mà cần phải căn cơ, dài hạn, bài bản, vừa góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát vừa đảm bảo an toàn hệ thống, hỗ trợ tăng trưởng, ổn định tỷ giá, lãi suất…
Trụ sở Ngân hàng Nhà nước |
Theo đại diện Ngân hàng Nhà nước, trước 2021 do đặc thù kinh tế Việt Nam, các nhu cầu vốn phụ thuộc chủ yếu vào tín dụng ngân hàng, kênh tín dụng là kênh cung cấp vốn chủ yếu cho nền kinh tế, có tốc độ tăng rất nhanh. Trong giai đoạn 2007 - 2010, tín dụng tăng bình quân trên 36%, tỷ lệ tín dụng/GDP cũng tăng rất nhanh, kéo theo các cuộc đua lãi suất, dẫn đến lãi suất cho vay tăng nhanh, nợ xấu hệ thống ngân hàng tăng cao. Nhiều tổ chức tín dụng mất khả năng thanh toán, hệ thống đứng trước bờ vực khủng hoảng, gây bất ổn kinh tế vĩ mô, lạm phát lên mức 2 con số, đỉnh điểm là vào năm 2008.
Các tổ chức quốc tế IMF, WB, Moody’s… cảnh báo nới lỏng tín dụng giai đoạn này đã gia tăng nguy cơ rủi ro trọng yếu đối với nền kinh tế, đe dọa an toàn hệ thống, mất khả năng kiểm soát, nợ xấu... Ngoài ra kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, nên tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tác động kéo dài ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế, đặc biệt là hoạt động ngân hàng.
Trước bối cảnh đó, từ năm 2011, kết hợp với việc siết chặt hoạt động thanh tra giám sát theo các tiêu chí an toàn theo chuẩn mực quốc tế, Ngân hàng Nhà nước đã tiến hành giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng tổ chức tín dụng căn cứ vào năng lực tài chính, quản trị, điều hành của từng đơn vị. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cũng thường xuyên nghiên cứu, điều chỉnh, cập nhật để đảm bảo biện pháp điều hành tăng trưởng tín dụng bám sát tình hình thực tiễn, nhằm đạt mục tiêu hàng năm do chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đặt ra trong kiểm soát lạm phát, đảm bảo an toàn hệ thống và ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối.
Từ 2020 đến nay, kinh tế Việt Nam liên tục trải qua nhiều biến động lớn, ảnh hưởng trọng yếu đến hoạt động ngân hàng, áp lực lạm phát tăng cao, khiến hầu hết ngân hàng Trung ương trên thế giới đẩy nhanh tiến trình thắt chặt chính sách tiền tệ, tăng mạnh lãi suất, gây thách thức rất lớn cho công tác điều hành chính sách tiền tệ và tín dụng của Ngân hàng Nhà nước.
Mặc dù chịu rất nhiều thách thức, nhưng đến nay, Ngân hàng Nhà nước vẫn có những giải pháp điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt nhằm đảm bảo mục tiêu quan trọng nhất là ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát và được các tổ chức tài chính quốc tế (IMF, WB, ADB,..) đánh giá cao công tác điều hành.
Kiểm soát lạm phát, đảm bảo an toàn của hệ thống là nhiệm vụ hàng đầu
Hiện nay, lạm phát trong nước hiện vẫn trong tầm kiểm soát nhưng áp lực trong năm 2023 là khá lớn và không thể chủ quan với rủi ro này. Dưới góc độ của cơ quan quản lý vĩ mô, Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục kiên định với mục tiêu kiểm soát lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, thận trọng trong điều hành chính sách tiền tệ, trong đó có điều hành tín dụng.
Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú |
Theo lạm phát là vấn đề chúng ta cần hết sức lưu tâm, các tổ chức quốc tế đã tiếp tục có những cảnh báo về việc này.
Thực tế trong 2 năm vừa qua, nhiều nước đã nới lỏng tiền tệ và tài khóa để hỗ trợ phục hồi kinh tế sau dịch. Nhiều ngân hàng Trung ương chủ quan đã khiến cho lạm phát và kỳ vọng lạm phát tăng cao và sau đó họ đã phải tăng nhanh và mạnh lãi suất để chống lạm phát. Thực tế đó khiến chúng ta không thể chủ quan, nhất là với nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam.
Do đó, trong những tháng cuối năm 2022, Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú nhấn mạnh định hướng điều hành theo hướng ổn định, linh hoạt phù hợp điều kiện thực tế, mục tiêu quan trọng nhất là kiểm soát lạm phát.
Trong bối cảnh lạm phát và lãi suất đang có xu hướng tăng trên toàn cầu, nhiều chuyên gia kinh tế đánh giá dư địa để Ngân hàng Nhà nước Việt Nam duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng đang dần thu hẹp. Tuy nhiên, các chuyên gia cũng cho rằng, Ngân hàng Nhà nước sẽ nỗ lực duy trì chính sách tiền tệ phù hợp, chưa vội thắt chặt ngay để hỗ trợ nền kinh tế phục hồi và ổn định thị trường.
TS. Trần Hoàng Ngân - Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia đánh giá, việc điều hành chính sách tiền tệ trong thời điểm hiện nay là cực kỳ khó khăn và thách thức không chỉ ở Việt Nam mà ngân hàng Trung ương trên thế giới đều đau đầu làm sao giải quyết hài hòa giữa kiểm soát lạm phát nhưng lại chống được suy thoái kinh tế. Mỗi một quốc gia đều lựa chọn công cụ điều hành dựa trên điều kiện thực tế của quốc gia mình cho phù hợp.
"Điều hành chính sách tiền tệ hướng tới 3 mục tiêu. Thứ nhất là ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát hiện đang được kiểm soát tốt. Thứ hai là thúc đẩy phát triển kinh tế, giải quyết công ăn việc làm thì kinh tế đang tăng trưởng tốt. Thứ ba là ổn định an ninh tài khoá, hệ thống ngân hàng quốc gia ổn định, hệ thống của chúng ta đang ổn định. Từ kết quả trên cho thấy, 8 tháng qua điều hành chính sách tiền tệ đang đi đúng hướng. Tôi đánh giá cao điều hành chính tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước", TS. Trần Hoàng Ngân nhấn mạnh.
Cũng theo nhìn nhận của TS. Trần Hoàng Ngân, trước áp lực lạm phát toàn cầu khiến các ngân hàng Trung ương thắt chặt chính sách tiền tệ, chỉ một số nước nới lỏng do suy thoái. Còn tại Việt Nam chưa có dấu hiệu là thắt chặt và Ngân hàng Nhà nước đang điều hành thận trọng theo diễn biến thị trường. Điều đó thể hiện rõ qua việc Ngân hàng Nhà nước tiếp tục kiên định điều hành chính sách tín dụng theo định hướng từ đầu năm tăng trưởng tín dụng ở mức 14%.
Trước những vấn đề trên, đại diện Ngân hàng Nhà nước cho biết thời gian tới sẽ tiếp tục theo dõi sát diễn biến vĩ mô, tài chính, tiền tệ trong và ngoài nước, điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế không chủ quan với rủi ro lạm phát để kiểm soát quy mô, tăng trưởng gắn với chất lượng tín dụng.
Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cũng sẽ chỉ đạo các tổ chức tín dụng hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; Kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.