Đại biểu Quốc hội bàn về cơ chế gỡ vướng thi hành Luật Đất đai
| Thường vụ Quốc hội họp phiên thứ 52 cho ý kiến loạt nội dung quan trọng Quốc hội bổ sung 7 nội dung vào chương trình kỳ họp thứ 10 |
Thống nhất về sự cần thiết và hình thức ban hành nghị quyết để tháo gỡ một số khó khăn vướng mắc trong thực hiện Luật Đất đai, đại biểu Nguyễn Thành Nam (đoàn Phú Thọ) cho rằng, đây là một văn bản cấp thiết, kịp thời, thể hiện quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước nhằm phá vỡ ách tắc kéo dài của các dự án đầu tư và tăng cường tính minh bạch thông qua việc mở rộng áp dụng bảng giá đất và hệ số điều chỉnh giá đất.
Đại biểu cũng nhấn mạnh, Nhà nước phải đóng vai trò là kiến trúc sư của thị trường để giải quyết nghịch lý giá đất ở Việt Nam so với thu nhập trung bình của người dân cao hơn nhiều so với mức trung bình của thế giới.
Bên cạnh đó, cần chuyên nghiệp hóa công tác định giá đất theo hướng củng cố chuyên môn hóa. Tổ chức tư vấn định giá đất công lập theo mô hình đơn vị sự nghiệp công lập hoặc doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, độc lập về tổ chức với cơ quan quản lý đất đai và cơ quan quản lý giá.
“Việc này nhằm tăng cường thực hiện nhiệm vụ đặt hàng thay cho cơ chế đấu thầu kéo dài của các tổ chức tư vấn tư nhân. Cần nâng cao hơn nữa vai trò của trung tâm phát triển quỹ đất trong việc tham gia mua bán và quản lý dự án dự trữ đất đai theo kế hoạch.
Đồng thời nên nghiên cứu tích hợp chính sách an sinh xã hội trong bồi thường, hỗ trợ; ưu tiên đưa người nông dân, người lao động tự do hết tuổi hoặc cận hết tuổi lao động vào hệ thống bảo hiểm xã hội. Chuyển trọng tâm bồi thường từ giá trị tài sản sang giá trị sinh kế bền vững”, đại biểu Nguyễn Thành Nam đề xuất.
![]() |
| Đại biểu Hà Sỹ Đồng (đoàn Quảng Trị). |
Quan tâm đối với nội dung cơ chế thu hồi đất khi dự án đạt trên 70% hoặc 75% diện tích và 75% số người sử dụng đất đồng thuận, đại biểu Hà Sỹ Đồng (đoàn Quảng Trị) cho rằng đây là điểm mở quan trọng nhưng cũng nhạy cảm và tác động trực tiếp đến quyền tài sản của công dân được Hiến pháp bảo hộ. Nếu quy định chưa chặt, nguy cơ khiếu kiện kéo dài, mất đồng thuận, thậm chí tạo điểm nóng xã hội là hoàn toàn có thể xảy ra.
“Đề nghị Quốc hội cân nhắc kỹ hoặc nâng tỉ lệ này lên 80% đến 85% để tăng độ an toàn pháp lý và sức thuyết phục xã hội. Hoặc chỉ nên áp dụng đối với các dự án trọng điểm quốc gia, dự án hạ tầng chiến lược, hoặc dự án đã bồi thường kéo dài nhiều năm nhưng không xong, chứ không áp dụng đại trà. Đồng thời, điều quan trọng không nằm riêng ở tỉ lệ mà nằm ở cơ chế xác định giá bồi thường, cơ chế đối thoại, cơ chế tái định cư và cơ chế giám sát độc lập”, đại biểu Hà Sỹ Đồng nêu ý kiến.
Đại biểu Hà Sỹ Đồng cũng đề nghị luật hóa rõ yêu cầu phải có Hội đồng thương lượng độc lập, mời tổ chức định giá đất uy tín, công khai minh bạch toàn bộ hồ sơ. Theo đại biểu, người dân cần thấy chính sách không phải là ép buộc mà là cùng thỏa thuận, sự công bằng. Một chính sách đất đai sẽ chỉ có giá trị khi người dân thấy mình được tôn trọng và quyền lợi của họ được bảo đảm trước khi Nhà nước thu hồi đất cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Cho rằng nội dung quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 3 này nhằm giải quyết những điểm nghẽn trong nhiều năm qua, đại biểu Dương Khắc Mai (đoàn Lâm Đồng) lý giải thực tế đã xảy ra một số vấn đề không mong muốn trong việc dự án thỏa thuận với người dân, đôi khi cả một dự án phải dừng vì một người dân không đồng ý. Tuy nhiên, để bảo đảm lợi ích hài hòa khi áp dụng, đại biểu đề nghị cần lưu tới ngưỡng 75% diện tích và số hộ.
Theo đó, ông đề nghị giải trình làm rõ cơ sở khoa học của tỷ lệ này, theo ông sẽ thuyết phục hơn nếu có số liệu thống kê về các dự án bế tắc do thỏa thuận, và tỷ lệ phổ biến mà nhà đầu tư đạt được là bao nhiêu. Về thời gian thỏa thuận, trước đây Nghị định 148 quy định về thời hạn tối đa là 36 tháng để doanh nghiệp thỏa thuận nhận đất, nhằm tránh kéo dài vô thời hạn. Tuy nhiên, nhiều dự án trước Nghị định 148 không có mốc thời gian này.
![]() |
| Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng giải trình làm rõ ý kiến đại biểu. |
Ông Mai đề nghị bổ sung quy định chuyển tiếp đối với dự án thỏa thuận trước khi có quy định thời hạn. Đồng thời cần làm rõ cách tính mốc hết thời hạn phải hoàn thành thỏa thuận ra sao để bảo đảm điều khoản thu hồi 75% khả thi trên thực tế.
Băn khoăn về cơ chế thỏa thuận kết hợp với thu hồi đất và tính khả thi của việc xác định phương án tái định cư bình quân được đưa ra tại dự thảo nghị quyết, đại biểu Nguyễn Thành Nam (đoàn Phú Thọ) nhận thấy thực tế thời gian qua việc áp dụng cơ chế thỏa thuận đối với hầu hết các dự án đã khiến việc triển khai bị đình trệ, phá vỡ nguyên tắc công bằng về giá. Điều này dẫn đến giá đàm phán riêng lẻ chứ không phải giá thị trường công khai, tạo ra sự bất công và thiếu minh bạch.
“Thậm chí, đề xuất ngưỡng thỏa thuận 75% cũng chưa rõ cơ sở và tiềm ẩn nhiều bất cập. Vì nó tạo ra tình trạng “đầu thì dân sự, đuôi thì hành chính” trong một dự án. Vừa không đảm bảo tính công bằng, vừa phá vỡ nguyên tắc pháp chế trong thực thi pháp luật”, đại biểu nhấn mạnh.
Để giải quyết căn cơ các vấn đề lớn của thị trường đất và bảo đảm phát triển bền vững, đại biểu Nguyễn Thành Nam cho rằng cần mạnh dạn chuyển đổi tư duy quản lý, đặt hiệu quả sử dụng đất và lợi ích toàn dân lên trên yếu tố giá tiền thuần túy.
Về lâu dài, đại biểu đề nghị Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung trong Nghị quyết và tiến tới sửa đổi Luật Đất đai theo hướng mở rộng các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Đồng thời, bỏ cơ chế vừa thỏa thuận. vừa thu hồi cho một dự án tại Điểm b Khoản 2 Điều 3 của dự thảo.
“Khi áp dụng mở rộng các trường hợp Nhà nước thu hồi đất sẽ đồng thời khiến cơ chế thỏa thuận chỉ còn áp dụng cho các dự án nhỏ hoặc rất nhỏ, hoặc không đạt ngưỡng lợi ích công cộng. Điều đó sẽ làm cho việc thỏa thuận trở nên dễ dàng và khả thi hơn”, đại biểu nhấn mạnh.
Giải trình làm rõ ý kiến đại biểu đề nghị cần làm rõ sự cần thiết bổ sung các trường hợp Nhà nước thu hồi đất, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng cho biết, tại Điều 79 của Luật Đất đai năm 2024 đã quy định cụ thể 31 trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.
Tuy nhiên, để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong tình hình mới, với mục tiêu tăng trưởng hai con số, cần phải bổ sung một số trường hợp thu hồi đất, bao gồm: Các dự án trong khu thương mại tự do, trung tâm tài chính quốc tế; thu hồi đất để tạo quỹ đất thanh toán dự án theo hợp đồng BT; tạo quỹ đất để cho thuê đất tiếp tục sản xuất kinh doanh đối với trường hợp tổ chức đang sử dụng đất mà bị Nhà nước thu hồi đất; thu hồi đất đối với phần diện tích còn lại của dự án khi nhà đầu tư đã thỏa thuận được trên 75% diện tích và nhận được sự đồng thuận của trên 75% số lượng người sử dụng đất trong phạm vi thực hiện dự án.
Về quy định cho phép Nhà nước thu hồi phần diện tích còn lại khi đã đạt trên 75% diện tích và trên 75% số lượng người sử dụng đất, cơ quan soạn thảo xác định đây là trường hợp đặc biệt cần phải được cân nhắc, đánh giá kỹ lưỡng, thận trọng trên các khía cạnh về kinh tế, xã hội, an ninh, trật tự, an toàn xã hội và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân.
Dự thảo nghị quyết đã giao cho HĐND cấp tỉnh xem xét, quyết định việc có hay không thu hồi phần diện tích đất còn lại khi nhà đầu tư đã thỏa thuận được trên 75% diện tích và trên 75% số lượng người sử dụng đất.
Đồng thời, Khoản 7 Điều 3 của dự thảo nghị quyết đã đưa ra 2 phương án. Phương án 1 là việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với diện tích đất còn lại áp dụng như trường hợp Nhà nước thu hồi đất.
Phương án 2: Trường hợp tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ theo phương án bồi thường, hỗ trợ tính trên một đơn vị diện tích thấp hơn mức trung bình giá đất đã thỏa thuận, thì người có đất bị thu hồi sẽ được nhận thêm số tiền còn thiếu so với mức trung bình đó. Nhà đầu tư có trách nhiệm chi trả số tiền chênh lệch này cho người có đất bị thu hồi và số tiền này được tính vào chi phí đầu tư của dự án.
Trên cơ sở ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Chính phủ sẽ phối hợp với cơ quan thẩm tra nghiên cứu để lựa chọn phương án, xem xét báo cáo với Quốc hội.




