Quy hoạch điện VIII vừa được duyệt có gì nổi bật?

Quy hoạch điện VIII đặt mục tiêu phát triển mạnh các nguồn năng lượng tái tạo phục vụ sản xuất điện. Định hướng đến năm 2050, tỷ lệ năng lượng tái tạo lên đến 67,5 - 71,5%.
Quy hoạch điện VIII sẽ "giải cứu" các dự án điện gió, điện mặt trời Chính thức phê duyệt Quy hoạch điện VIII

Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định số 500/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII).

Theo đó, Quy hoạch điện VIII quy hoạch phát triển nguồn điện, lưới điện truyền tải ở cấp điện áp từ 220kV trở lên, công nghiệp và dịch vụ về năng lượng tái tạo, năng lượng mới trên lãnh thổ Việt Nam thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (bao gồm cả các công trình liên kết lưới điện với các quốc gia láng giềng).

Quy hoạch điện VIII đặt ra mục tiêu bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Cùng với đó, thực hiện thành công chuyển đổi năng lượng công bằng gắn với hiện đại hóa sản xuất, xây dựng lưới điện thông minh, quản trị hệ thống điện tiên tiến, phù hợp với xu thế chuyển đổi xanh, giảm phát thải, phát triển khoa học công nghệ của thế giới. Đồng thời, hình thành hệ sinh thái công nghiệp năng lượng tổng thể dựa trên năng lượng tái tạo, năng lượng mới.

Về mục tiêu đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, Quy hoạch điện VIII yêu cầu cung cấp đủ nhu cầu điện trong nước, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội với mức tăng trưởng GDP bình quân khoảng 7%/năm (trong giai đoạn 2021 -2030), khoảng 6,5 - 7,5%/năm trong (giai đoạn 2031 - 2050).

Quy hoạch điện VIII vừa được duyệt có gì nổi bật?
Quy hoạch điện VIII ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo.

Đến năm 2030, độ tin cậy cung cấp điện năng thuộc nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN, chỉ số tiếp cận điện năng thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN. Phấn đấu đến năm 2030 có 50% các tòa nhà công sở và 50% nhà dân sử dụng điện mặt trời mái nhà tự sản, tự tiêu (phục vụ tiêu thụ tại chỗ, không bán điện vào hệ thống điện quốc gia).

Đối với chuyển đổi năng lượng công bằng, Quy hoạch điện VIII đặt mục tiêu phát triển mạnh các nguồn năng lượng tái tạo phục vụ sản xuất điện. Định hướng đến năm 2050, tỷ lệ năng lượng tái tạo lên đến 67,5 - 71,5%. Kiểm soát mức phát thải khí nhà kính từ sản xuất điện đạt khoảng 204 - 254 triệu tấn năm 2030 và còn khoảng 27 - 31 triệu tấn vào năm 2050.

Về phát triển hệ sinh thái công nghiệp và dịch vụ năng lượng tái tạo, dự kiến đến 2030, hình thành 2 trung tâm công nghiệp, dịch vụ năng lượng tái tạo liên vùng bao gồm: Sản xuất, truyền tải và tiêu thụ điện; công nghiệp chế tạo thiết bị năng lượng tái tạo, xây dựng, lắp đặt, dịch vụ liên quan; xây dựng hệ sinh thái công nghiệp năng lượng tái tạo tại các khu vực có nhiều tiềm năng như Bắc bộ, Nam Trung bộ, Nam bộ khi có các điều kiện thuận lợi.

Bên cạnh đó, mục tiêu phát triển các nguồn điện từ năng lượng tái tạo và sản xuất năng lượng mới phục vụ xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2030, quy mô công suất xuất khẩu điện đạt khoảng 5.000 - 10.000MW.

Để đạt được các mục tiêu trên, Quy hoạch điện VIII đã xác định các phương án phát triển nguồn điện, phương án phát triển lưới điện, liên kết lưới điện với các nước trong khu vực, định hướng phát triển điện nông thôn, định hướng phát triển sinh thái công nghiệp và dịch vụ về năng lượng tái tạo và nhu cầu vốn đầu tư.

Theo đó, giai đoạn 2021 - 2030 ước tính tổng vốn đầu tư phát triển nguồn và lưới điện truyền tải tương đương 134,7 tỷ USD; định hướng giai đoạn 2031 -2050 ước tính nhu cầu vốn đầu tư phát triển nguồn và lưới điện truyền tải tương đương 399,2 - 523,1 tỷ USD. Trong đó, đầu tư cho nguồn điện khoảng 364,4 - 511,2 tỷ USD, lưới điện truyền tải khoảng 34,8 - 38,6 tỷ USD (sẽ được chuẩn xác trong các quy hoạch tiếp theo).

Trên cơ sở bài toán tối ưu, Quy hoạch điện VIII đã đưa ra tổ hợp 11 kịch bản phát triển, lựa chọn và đề xuất kịch bản có chi phí cực tiểu, đáp ứng mục tiêu về tăng cường tỷ trọng nguồn năng lượng tái tạo và giảm ô nhiễm khí nhà kính.

Theo đó, sẽ không xây dựng thêm nhiệt điện than sau năm 2030, từng bước trộn và chuyển sang nhiên liệu sinh khối, hoặc amoniac; ưu tiên phát triển điện khí và cũng định hướng chuyển dần sang đốt trộn nhiên liệu, tiến tới đốt hoàn toàn hydro, amoniac trong dài hạn và sau năm 2035 không phát triển nguồn điện LNG mới.

Đặc biệt, quy hoạch đã đưa ra các phương án phụ tải và phương án phát triển nguồn khác nhau (có cân nhắc đến nhiều khía cạnh, quan điểm phát triển), cân bằng các loại nguồn; giảm truyền tải xa; tăng quy mô các nguồn điện mặt trời, gió, sinh khối và ưu tiên điện mặt trời tự sản, tự tiêu (không nối lưới).

Theo quy hoạch, quy mô nhiệt điện than tăng lên 30,1GW (nhưng thực tế hiện nay tổng công suất điện than đã là 25,8GW, chỉ còn hơn 4,3GW các công trình đang được xây dựng); tỷ trọng nhiệt điện than trong cơ cấu nguồn giảm từ gần 29% năm 2020 xuống 20,5% năm 2030. Điện sản xuất từ nguồn điện than giảm nhanh tỷ trọng, năm 2020 từ 46,5% xuống còn 34,8% vào năm 2030.

Trong khi đó, tỷ trọng nguồn điện khí tăng từ 10,2% (7,08GW) năm 2020 lên 21,8% (32GW) năm 2030, cho thấy sự chuyển dịch sang nhiên liệu ít phát thải khí nhà kính hơn, đồng thời linh hoạt hỗ trợ tốt hơn cho nguồn năng lượng tái tạo. Điện sản xuất từ nguồn điện khí tăng tỷ trọng, năm 2020 từ 12,5% lên tới 25,5% vào năm 2030.

Các nguồn điện năng lượng tái tạo (bao gồm thủy điện, điện mặt trời, gió, sinh khối) tăng từ 38,2 GW năm 2020 lên đến 73,78GW, nhất là các nguồn điện gió, mặt trời, sinh khối… tăng từ 17,4 GW năm 2020 lên đến hơn 44,4GW năm 2030; tỷ trọng tổng các nguồn năng lượng tái tạo trong cơ cấu công suất chiếm tới 50,3% vào năm 2030, mặc dù tỷ trọng thủy điện giảm mạnh do tiềm năng còn ít (từ 30% giảm còn 20%). Điện sản xuất từ nguồn điện năng lượng tái tạo chiếm 36% vào năm 2030.

Đến năm 2050, nguồn điện than sau năm 2030 không phát triển thêm, vì vậy, đến năm 2050 công suất chỉ chiếm 4,5% trong tổng cơ cấu công suất (25,6/573,1GW). Sản lượng điện từ nguồn này chỉ chiếm 5,3% trong tổng sản lượng điện, nhưng trong giai đoạn từ 2030 trở đi đã dự kiến từng bước chuyển nhiên liệu than sang các loại nhiên liệu không phát thải (như sinh khối, hoặc amoniac). Năm 2050 không còn sử dụng than cho sản xuất điện.

Trong khi đó, nguồn điện khí được phát triển lên đến 40,3GW vào năm 2035 và sau đó không phát triển thêm; tỷ trọng công suất nguồn điện khí chỉ còn chiếm 7% vào năm 2050, tuy sản lượng điện vẫn chiếm tới 15,7% tổng điện phát, nhưng đã dự kiến chuyển dần sang khí trộn, hydro; các nguồn nhiệt điện khí linh hoạt tăng lên, chiếm tới 8% tổng cơ cấu, nhưng số giờ chạy thấp, sản lượng không lớn, rất cần thiết để tăng hiệu quả nguồn năng lượng tái tạo.

Tổng công suất các nguồn năng lượng tái tạo (gồm cả thủy điện) năm 2050 lên tới gần 400GW, chiếm 69,8% tổng công suất nguồn điện, thể hiện tỷ trọng nguồn điện được duy trì và phát triển nguồn này rất cao. Điện năng từ tổng các nguồn năng lượng tái tạo chiếm tới 69% tổng sản xuất điện.

Xem chi tiết Quyết định số 500/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ tại đây!

Hậu Lộc
Phiên bản di động