Thủ tướng yêu cầu nghiên cứu phản ánh về nhiệt điện than trong Quy hoạch điện 8
Nhiệt điện than bất cập, gây ô nhiễm môi trường vì sao “không thể loại bỏ”? Kiến nghị giảm nhiệt điện than để phát triển năng lượng tái tạo |
Văn phòng Chính phủ vừa có văn bản gửi Bộ Công thương truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nghiên cứu thông tin phản ánh ý kiến chuyên gia về cơ cấu nguồn nhiệt than trong Dự thảo Quy hoach điện 8.
Theo đó, một số cơ quan báo chí dẫn lời các chuyên gia đánh giá, trong Dự thảo Quy hoạch điện 8, cơ cấu nhiệt điện than vẫn được duy trì cho tới năm 2045 trong khi đó lợi thế về năng lượng tái tạo chưa được tận dụng, khai thác đúng mức.
Đồn thời, Dự thảo Quy hoạch điện 8 đang mâu thuẫn với quy hoạch tích hợp Đồng bằng sông Cửu Long và Nghị quyết 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 của Chính phủ về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Các nhà máy nhiệt điện than nên được thay thế bằng năng lượng khí đốt và năng lượng tái tạo.
Về thông tin phản ánh nêu trên, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc giao Bộ Công thương nghiên cứu, đánh giá trong quá trình xây dựng và trình duyệt quy hoạch phát triển điện lực quốc gia.
Ảnh minh họa |
Trước đó, góp ý vào Dự thảo Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn tới năm 2045 (Quy hoạch điện 8), các tỉnh có quy hoạch nhiệt điện than, Liên minh Năng lượng Việt Nam và Đại sứ quán Đan Mạch đề nghị không phát triển thêm các dự án điện than mới, đặc biệt là trong giai đoạn 10 năm tới, thay vào đó ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời phân tán và điện gió.
Bên cạnh đó, các đơn vị trên cũng đề nghị các dự án nhiệt điện than dự kiến trong Quy hoạch điện 7 điều chỉnh chuyển sang sử dụng LNG. Đồng thời, loại bỏ vị trí quy hoạch nhà máy nhiệt điện than trong Quy hoạch điện 7 điều chỉnh, phần công suất thiếu hụt sẽ bù vào công suất nguồn LNG (lý do là các nhà máy nhiệt điện than gây ô nhiễm môi trường, không thu xếp vốn được).
Trả lời các góp ý này, đơn vị tư vấn Quy hoạch điện 8 (Viện Năng lượng) cho rằng, quy mô các nhà máy nhiệt điện than đưa vào giai đoạn 2021-2035 đều là những dự án chắc chắn xây dựng, đây là những dự án đã thực hiện công tác xúc tiến đầu tư tốt mà không thể loại bỏ, ví dụ: Nhiệt điện Nam Định I, Nhiệt điện Thái Bình II, Nhiệt điện Vũng Áng II, Nhiệt điện Vân Phong I, Nhiệt điện Duyên Hải II.... Sau 2035, hệ thống vẫn cần tiếp tục phát triển một phần nhỏ nhiệt điện than để đảm bảo tiêu chí an ninh năng lượng, giá điện không tăng quá cao.
Cũng theo đơn vị tư vấn, Quy hoạch điện 8 đã yêu cầu các nhà máy nhiệt điện than xây mới sử dụng công nghệ nhiệt điện than siêu tới hạn trở lên (trong giai đoạn 2021-2025), còn giai đoạn từ 2025-2035 chỉ xây dựng nhiệt điện than trên siêu tới hạn (USC) trở lên, và sau năm 2035 chỉ xây dựng nhiệt điện than trên siêu tới hạn cải tiến (AUSC).
Bên cạnh đó, để đáp ứng nhu cầu phụ tải với chi phí không quá cao, hệ thống vẫn cần phải xây dựng các nhà máy nhiệt điện. Nếu chọn phát triển nhiệt điện khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) thay than thì sự phụ thuộc vào bên ngoài vẫn như vậy, và chỉ phụ thuộc vào loại hình khí LNG sẽ làm giảm mức độ an ninh năng lượng, ngoài ra chi phí sản xuất điện của nguồn điện LNG khá lớn, giá điện sẽ tăng cao hơn nhiều (chi phí hệ thống sẽ tăng khoảng 2 tỷ USD/năm so với kịch bản chọn), không phù hợp với tiêu chí quy hoạch nguồn điện theo chi phí tối thiểu đã đặt ra.
Cũng theo đơn vị tư vấn, kịch bản phát triển nguồn điện lựa chọn đã đảm bảo các mục tiêu phát triển năng lượng tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính theo các chính sách hiện hành. Nếu phát triển tăng thêm nguồn năng lượng tái tạo, thì chi phí hệ thống sẽ cao hơn (kịch bản tăng năng lượng tái tạo sẽ cao hơn khoảng 1 tỷ USD/năm so với kịch bản chọn), không phù hợp với tiêu chí quy hoạch nguồn điện đặt ra.
Cũng theo đơn vị tư vấn, công nghệ các nhà máy nhiệt điện than hiện nay đã phát triển và tiến bộ vượt bậc nhằm đáp ứng nhu cầu giảm tiêu hao năng lượng và đảm bảo về môi trường. Vì vậy, với công nghệ hiện đại của các nhà máy nhiệt điện than hiện nay ngoài hiệu suất có thể lên đến > 50%, tiêu hao ít nhiên liệu và tài nguyên thì công nghệ xử lý chất thải cuối nguồn cũng đạt hiệu suất cao tương ứng có thể xử lý để giảm tối đa các tác động tiêu cực đến môi trường tự nhiên, hệ sinh thái và sức khỏe con người. Nhiều dự án còn nằm gần các đô thị lớn như ở Úc, Nhật Bản, Đức.
Thực tế cho thấy, phát thải từ nhà máy hiện được kiểm soát bởi hai lớp tiêu chuẩn: Tiêu chuẩn nguồn thải quy định nồng độ phát thải khí thải tại nguồn và tiêu chuẩn chất lượng không khí xung quanh áp dụng để kiểm soát nồng độ phát thải các loại khí thải trong không khí xung quanh nên phát thải ở mức rất thấp và được kiểm soát bằng hệ thống giám sát tự động về các cơ quan quản lý môi trường địa phương. Do đó, nồng độ các khí thải sẽ được kiểm soát ở ngưỡng không gây hại đến sức khỏe con người.