Việt Nam vào top 100 đại học thế giới và phổ cập tiếng Anh: Có khả thi?
| Sáp nhập cơ học có thể sẽ khiến một số trường đại học đang mạnh thành kém đi |
Sáng 25/11, thảo luận tại tổ về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 - 2035, đại biểu Lê Tiến Châu, Bí thư Thành ủy, Trưởng đoàn Hải Phòng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cụ thể hóa Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
Theo ông Châu, Chính phủ đã trình Quốc hội đề xuất đầu tư hơn 580.000 tỷ đồng cho Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 - 2035. Cụ thể, tổng vốn để thực hiện giai đoạn 1 (2026 - 2030) là tối thiểu 174.673 tỷ đồng và giai đoạn 2 (2031 - 2035) dự kiến hơn 405.000 tỷ đồng.
Tuy nhiên, đại biểu Lê Tiến Châu cho rằng, từ khát vọng đến hiện thực là một khoảng cách cần được lấp đầy bằng những giải pháp khả thi.
Đáng chú ý, một trong những mục tiêu tham vọng nhất của chương trình là đưa một số cơ sở giáo dục đại học lọt nhóm 100 trường hàng đầu thế giới và từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai.
![]() |
| Đại biểu Bùi Sỹ Hoàn phát biểu thảo luận. |
Đại biểu Bùi Sỹ Hoàn (đoàn Hải Phòng) bày tỏ sự băn khoăn sâu sắc về tính thực tế của các chỉ tiêu này. Đại biểu phân tích, để lọt top 100 thế giới, các trường đại học cần tích lũy danh tiếng học thuật và nguồn lực tài chính khổng lồ trong hàng thập kỷ, thậm chí hàng thế kỷ.
"Như trường Harvard, mỗi năm ngân sách đầu tư lên tới 5 tỷ USD. Trong khi các trường trong Top 100 họ cũng liên tục vận động, thì việc chúng ta muốn chen chân vào top 100 trong 5 - 10 năm tới là cực kỳ khó khăn", ông Hoàn đánh giá.
Đại biểu Hoàn gợi ý thay vì đặt mục tiêu tổng thể, Việt Nam nên học tập mô hình của các nước Đông Bắc Á là tập trung đầu tư cho một vài ngành, lĩnh vực mũi nhọn lọt top thế giới trước.
Về mục tiêu đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai, đại biểu Hoàn chỉ ra rào cản về năng lực giáo viên và sự chênh lệch vùng miền.
"Ngay cả giáo viên dạy ngoại ngữ hiện nay ở nhiều nơi còn chưa chuẩn, chưa nói đến giáo viên các môn khác phải dạy bằng tiếng Anh. Hơn nữa, đưa một ngoại ngữ thành ngôn ngữ thứ hai còn liên quan đến vấn đề bản sắc văn hóa, cần một sự chuyển biến nhận thức xã hội sâu sắc chứ không chỉ bằng một nghị quyết", ông Hoàn nói.
Đại biểu Đoàn Thị Lê An (đoàn Cao Bằng) cũng bày tỏ băn khoăn về tính khả thi của mục tiêu này. Đại biểu cho rằng, để triển khai thành công thì chúng ta cần phải đánh giá thẳng thắn, kỹ lưỡng những điều kiện và thách thức về cơ sở vật chất cũng như nhân lực và môi trường để triển khai.
![]() |
| Đại biểu Đoàn Thị Lê An (đoàn Cao Bằng). |
“Thực tế hiện nay, chúng ta có những vướng mắc về cơ sở vật chất, về nguồn lực và giáo viên. Theo đó, sự chênh lệch đầu tư về cơ sở vật chất giữa các vùng miền rất lớn. Mạng Internet tuy được cải thiện mạnh, song tốc độ và hạ tầng chưa đồng đều để triển khai dạy học trực tuyến hỗ trợ tiếng Anh”, đại biểu lo ngại.
Chỉ rõ thực trạng khu vực miền núi như tại tỉnh Cao Bằng, gần 70% trường phổ thông vẫn chưa đạt chuẩn về thiết bị công nghệ phục vụ học ngoại ngữ, nhiều điểm trường lẻ của vùng dân tộc thiểu số còn chưa có phòng học kiên cố, đại biểu nhận thấy, chỉ tiêu 30% vào năm 2030 có thể khả thi ở các tỉnh, thành phố lớn, nhưng rất thách thức tại khu vực miền núi như Cao Bằng, Tuyên Quang, Lai Châu… những nơi điều kiện cơ sở vật chất chưa đồng bộ.
Bên cạnh đó, tình trạng thiếu trầm trọng giáo viên tiếng Anh là “điểm nghẽn” lớn nhất, nhiều địa phương hiện thiếu hàng nghìn giáo viên ngoại ngữ đạt chuẩn.
“Mốc 2030 hoàn thành 30% cơ sở giáo dục sẽ khả thi với điều kiện chúng ta tập trung vào đô thị và đồng bằng trước. Xây dựng mô hình thí điểm “trường trọng điểm tiếng Anh” tại tỉnh miền núi, nhưng chỉ nên chọn trường trung tâm”, đại biểu kiến nghị.
Vì vậy, để đạt được mục tiêu nêu trên, đại biểu Đoàn Thị Lê An đề nghị cần đầu tư mạnh mẽ và đồng bộ; chuẩn hóa đội ngũ giáo viên; hỗ trợ đặc thù cho vùng dân tộc thiểu số, miền núi và có lộ trình phù hợp với thực tiễn từng vùng, từng địa phương.
Cụ thể, cần ban hành Chương trình quốc gia đào tạo giáo viên giảng dạy môn học bằng tiếng Anh, mục tiêu đào tạo ít nhất 20.000 giáo viên môn Toán - Khoa học tự nhiên - Tin học có khả năng giảng dạy bằng tiếng Anh đến năm 2035.
Đồng thời, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho các tỉnh miền núi như: Hỗ trợ xây dựng phòng ngoại ngữ chuẩn cho 100% trường huyện miền núi trước năm 2030; ưu tiên vùng miền núi, biên giới, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn như: Cao Bằng, Lạng Sơn, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu…
Cùng với đó, đại biểu cho rằng, cần có chính sách thu hút giáo viên tiếng Anh chất lượng cao như quan tâm tăng phụ cấp thu hút lên 70 - 100% lương cơ bản cho giáo viên về vùng khó khăn; hỗ trợ nhà ở, cam kết hợp đồng dài hạn.
Cùng quan điểm, đại biểu Ma Thị Thúy (đoàn Tuyên Quang) cũng băn khoăn tính khả thi của mục tiêu nêu trên, nhất là đối với các tỉnh miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đại biểu cho rằng, dự thảo cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các mục tiêu và cơ chế thực hiện để bảo đảm tính thực tiễn.
“Thực tế, nhiều xã miền núi hiện nay còn thiếu giáo viên tiếng Anh cơ bản; hạ tầng công nghệ thông tin, thiết bị nghe - nhìn còn rất hạn chế. Việc yêu cầu 100% cơ sở giáo dục có đủ thiết bị dạy học để triển khai thực hiện đưa tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai vào năm 2035 là mục tiêu rất cao, tiệm cận với các quốc gia phát triển”, đại biểu nêu quan điểm.
Do đó, đại biểu đề nghị Chính phủ cân nhắc lộ trình đặc thù cho miền núi; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, kết nối lớp học trực tuyến, AI để bù đắp thiếu giáo viên; xây dựng trung tâm tiếng Anh vùng khó khăn theo mô hình liên xã.




