Kinh tế Việt Nam quý II/2023 vẫn đối mặt với nhiều khó khăn

Theo dự báo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, kinh tế Việt Nam quý II/2023 sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn.
Kinh tế Việt Nam được dự báo tăng trưởng tốt nhất ASEAN INFOGRAPHIC kinh tế – xã hội Việt Nam quý I/2023: Khó khăn! Chỉ số CPI quý I/2023 của Việt Nam tăng 4,18%

Kinh tế chịu nhiều sức ép trước tình hình thế giới biến động

Sáng 3/4, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị trực tuyến toàn quốc Chính phủ với địa phương và phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3/2023.

Phát biểu khai mạc, Thủ tướng Phạm Minh Chính lưu ý, chúng ta đã kết thúc quý I, bước vào quý II của năm thứ 3 thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

Theo Thủ tướng, chúng ta triển khai các nhiệm vụ, giải pháp, nỗ lực đạt các mục tiêu đề ra theo các nghị quyết, kết luận, chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ trong bối cảnh hậu quả của đại dịch COVID-19 chưa khắc phục được hết, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt hơn.

Đồng thời, kinh tế thế giới có xu hướng sụt giảm, lạm phát của các nước tuy hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao, các nước tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ, cầu giảm, thị trường thu hẹp, nhất là các thị trường lớn của Việt Nam, giá một số mặt hàng chiến lược, nguyên vật liệu đầu vào không ổn định, nhất là giá dầu.

Những yếu tố bất ổn, rủi ro gia tăng, niềm tin suy giảm trên thị trường tài chính toàn cầu, một số ngân hàng tại Mỹ, Châu Âu ngừng hoạt động, phá sản.

Trong nước, quy mô nền kinh tế khiêm tốn nhưng có độ mở cao, sức chống chịu có hạn, một biến động nhỏ bên ngoài cũng có thể tác động lớn đến bên trong, trong điều kiện một nước phát triển, nền kinh tế đang chuyển đổi.

Kinh tế Việt Nam quý II/2023 vẫn đối mặt với nhiều khó khăn
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu khai mạc phiên họp. VGP.

Mặc dù vậy, chúng ta đã cơ bản đạt được các mục tiêu lớn: Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, tăng cường, mở rộng đối ngoại và hội nhập; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện, Liên Hợp Quốc vừa công bố xếp hạng "Chỉ số hạnh phúc toàn cầu" của Việt Nam tăng 12 bậc.

Tuy nhiên, theo Thủ tướng các khó khăn, thách thức còn nhiều. Ngay từ đầu năm, chúng ta đã nhận định tình hình có khó khăn, thách thức nhiều hơn cơ hội, thuận lợi và đến nay, chúng ta càng thấy nhận định này là đúng.

Cụ thể, sự hồi phục của doanh nghiệp sau COVID-19 còn còn nhiều khó khăn liên quan tới tiếp cận vốn, đất đai, thủ tục hành chính rườm rà, thị trường bị thu hẹp.

Lãnh đạo Chính phủ cho rằng, các thị trường bất động sản, vốn, trái phiếu doanh nghiệp còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần tiếp tục tháo gỡ để các thị trường ổn định, an toàn, lành mạnh, bền vững; việc khắc phục các vấn đề liên quan tới cung ứng thuốc, sinh phẩm, vật tư y tế cần nỗ lực, quyết liệt hơn nữa.

Theo người đứng đầu Chính phủ, phản ứng chính sách của các bộ, ngành, địa phương cần kịp thời, hiệu quả hơn để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân để phục hồi tốt hơn. Việc giải ngân đầu tư công, triển khai 3 chương trình mục tiêu quốc gia còn khó khăn. Công tác cải cách hành chính cần được đẩy mạnh hơn và kỷ luật, kỷ cương hành chính cần được tăng cường hơn nữa.

Thủ tướng nêu rõ, thời gian qua, chúng ta đã rất nỗ lực để triển khai 3 nhóm công việc lớn: Các vấn đề tồn đọng, kéo dài cần nhiều thời gian để giải quyết như các dự án thua lỗ, ngân hàng yếu kém; các nhiệm vụ thường xuyên ngày càng nhiều hơn, nặng nề hơn với đòi hỏi ngày càng cao hơn khi quy mô nền kinh tế lớn hơn, dân số đông hơn; xử lý, ứng phó với các vấn đề đột xuất, bất ngờ.

Nền kinh tế thời gian tới dự báo còn nhiều khó khăn

Theo báo cáo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, kinh tế vĩ mô tháng 3 và quý I cơ bản được giữ ổn định, kiểm soát được lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và bảo đảm được các cân đối lớn.

Mặc dù vậy, do diễn biến ngày càng bất lợi, khó lường của thế giới đã ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng kinh tế, hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước, nhất là sản xuất công nghiệp, xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư…

Qua nắm bắt tình hình doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng, trong quý I giá trị xuất khẩu thủy sản giảm 30% so với cùng kỳ năm trước, đơn hàng dệt may giảm 15 - 20%... Các doanh nghiệp xây dựng chưa đạt được 10% kế hoạch năm. Khó khăn có thể kéo dài hết quý II/2023.

Kinh tế Việt Nam quý II/2023 vẫn đối mặt với nhiều khó khăn
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng trình bày báo cáo từ điểm cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Ảnh: MPI.

Đặc biệt, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động quý I đạt gần 57 nghìn doanh nghiệp (giảm 5,4% so với cùng kỳ), thấp hơn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường (trên 60,2 nghìn doanh nghiệp, tăng 17,4% so với cùng kỳ).

Cùng với đó, áp lực điều hành kinh tế vĩ mô gia tăng. Điều hành chính sách tiền tệ có thể khó khăn hơn, nhất là trong bối cảnh chính sách tiền tệ của Mỹ, EU sẽ phức tạp, khó dự báo hơn, vừa phải nhất quán với định hướng thắt chặt để kiểm soát lạm phát, vừa phải xử lý các rủi ro của hệ thống ngân hàng, bảo đảm thanh khoản, cung ứng tín dụng cho nền kinh tế.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, những khó khăn, áp lực điều hành nêu trên yêu cầu cần có chính sách kịp thời hỗ trợ sản xuất, thúc đẩy đầu tư để cải thiện nguồn cung trong nước, tạo động lực tăng trưởng, tăng thu ngân sách Nhà nước, góp phần giảm bớt áp lực lạm phát cho nền kinh tế.

Chính sách tài khóa phải đóng vai trò quan trọng và quyết định đối với kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng; cần phát huy các dư địa tài khóa đã được Quốc hội quyết nghị, xây dựng, bổ sung ngay các giải pháp hỗ trợ, nhất là thuế, phí cho doanh nghiệp, sản xuất kinh doanh.

Trên cơ sở kết quả quý I, dự báo tình hình quý II và cả năm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự báo 2 kịch bản tăng trưởng.

Kịch bản 1: Tăng trưởng kinh tế cả năm dự kiến đạt 6% (thấp hơn 0,5 điểm % so với mục tiêu Quốc hội quyết nghị), tăng trưởng các quý II, III và IV theo kịch bản tại Nghị quyết số 01/NQ-CP (lần lượt là 6,7%, 6,5% và 7,1%).

Trường hợp tăng trưởng năm 2023 chỉ đạt 6% sẽ gây áp lực rất lớn lên mục tiêu tăng trưởng 5 năm 2021-2025 (6,5-7%), đòi hỏi năm 2024-2025 phải đạt tăng trưởng bình quân gần 8%/năm để đạt mục tiêu 5 năm là 6,5%.

Kịch bản 2: Để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế cả năm là 6,5%, tăng trưởng kinh tế quý II là 6,7% (bằng kịch bản Nghị quyết 01/NQ-CP), quý III và quý IV tăng trưởng lần lượt là 7,5% và 7,9% (cao hơn lần lượt 1 điểm % và 0,8 điểm % so với kịch bản tại Nghị quyết số 01/NQ-CP).

Đây là kịch bản rất thách thức, đòi hỏi nỗ lực, quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị. Hiện nay, hầu hết các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, người dân thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội đã hết thời gian thực hiện hoặc hiệu quả thấp.

Do đó, cần sớm ban hành chính sách hỗ trợ mới như giảm thuế, phí…, tiếp tục phấn đấu giảm mặt bằng lãi suất cho vay để kích thích tăng trưởng, hỗ trợ sản xuất, kinh doanh.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư kiến nghị lựa chọn kịch bản 2, phấn đấu tăng trưởng cả năm là 6,5%, tạo đà cho các năm tiếp theo để góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng 5 năm 2021 - 2025 từ 6,5 - 7%.

Hậu Lộc
Phiên bản di động