Thống đốc: Tín dụng bất động sản gặp khó khăn chủ yếu do yếu tố pháp lý
Số doanh nghiệp bất động sản phá sản tăng cao Phục Hưng Holdings tiếp tục tập trung vào mảng xây lắp, bất động sản và năng lượng |
Sáng 5/4, phát biểu tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4/2023, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho biết, trong 4 tháng đầu năm, bối cảnh kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, kinh tế thế giới phục hồi không chắc chắn, tiềm ẩn rủi ro suy thoái kinh tế, rủi ro ngân hàng khiến các ngân hàng Trung ương chậm lại đà tăng lãi suất, chỉ số USD hạ nhiệt…, đan xen thuận lợi, khó khăn tác động tới kinh tế, tiền tệ trong nước.
Trước bối cảnh đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt, sát sao, toàn diện các mặt hoạt động để tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế.
Đối với lĩnh vực ngân hàng, về việc điều hành chính sách tiền tệ để ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối. Trong 4 tháng đầu năm, Ngân hàng Nhà nước đã theo dõi sát diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ để điều tiết tiền tệ phù hợp, điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành, kêu gọi các ngân hàng thương mại giảm lãi suất huy động và cho vay để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng phát biểu tại phiên họp. Ảnh: SBV. |
Về tăng trưởng tín dụng, đến ngày 25/4, tín dụng tăng 2,75% so với cuối năm ngoái. Theo Thống đốc, tín dụng tăng chậm trong bối cảnh đầu năm không chịu hạn chế bởi hạn mức tăng trưởng tín dụng và trong điều kiện thanh khoản hệ thống các tổ chức tín dụng được cải thiện.
Điều đó cho thấy sức hấp thụ vốn thấp, nguyên nhân được đưa ra là do các doanh nghiệp không có đầu ra, đơn hàng giảm nên nhu cầu và vốn giảm, có những doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn nhưng do suy yếu trong thời gian chịu tác động bởi COVID-19 nên không đủ điều hiện vay vốn.
Cùng với đó, tín dụng bất động sản gặp khó khăn chủ yếu do yếu tố pháp lý nên tăng không cao như thời gian trước đây (tín dụng bất động sản tăng 3,51%).
Đối với gói tín dụng 120.000 tỷ đồng, Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản hướng dẫn các ngân hàng, 4 ngân hàng thương mại Nhà nước đã chuẩn bị vốn để sẵn sàng cho vay khi các địa phương công bố các dự án (Bộ xây dựng đã có văn bản hướng dẫn các địa phương về tiêu chí, điều kiện để xác định dự án).
Tại phiên họp, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra 2 kiến nghị. Trước hết cần có giải pháp để khai thác cầu nội địa nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì tăng trưởng kinh tế của Việt Nam phục thuộc rất lớn vào xuất khẩu (cầu nước ngoài, tỷ lệ xuất khẩu/GDP gần 100%) nên trong điều kiện các nước vẫn còn thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt thì khả năng cải thiện cầu nước ngoài không thể nhanh được.
Số liệu cho thấy tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng vẫn có mức tăng trưởng cao hơn cùng kỳ, loại trừ giá tăng 8,3% trong khi 4 tháng năm 2022 chỉ tăng 3,9% (khách quốc tế đến Việt Nam tăng 19,2 lần cùng kỳ năm ngoái). Đây là yếu tố giúp hỗ trợ tăng trưởng kinh tế thời gian qua và cần được quan tâm khai thác cầu nội địa.
Bên cạnh đó, Thống đốc cũng cho rằng, việc thúc đẩy tín dụng để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế cần hài hòa với mục tiêu đảm bảo an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng. Thời gian qua, tín dụng tăng chậm không chỉ ở Việt Nam; khi các ngân hàng Mỹ sụp đổ, lan sang châu Âu, các ngân hàng tại nhiều quốc gia cũng thận trọng hơn khi cho vay, để đảm bảo thanh khoản, sẵn sàng chi trả cho người gửi tiền.
Theo đánh giá của một số nhà phân tích, sự sụp đổ của SVB và First Republic Bank - hai ngân hàng Mỹ có quy mô tổng tài sản trên 200 tỷ USD không phải do thua lỗ. Hai ngân hàng này đã có lãi ít nhất trong 53 quý liên tục kể từ năm 2010 đến nay, với nợ xấu thấp dưới 0,2%, giá trị trích lập dự phòng rủi ro gấp 4,6 lần quy mô nợ xấu).
Nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ chính là các ngân hàng này đầu tư vào các tài sản kỳ hạn dài, dễ mất giá trong môi trường lãi suất tăng. Bởi vậy, đối với trường hợp của Việt Nam, không nên dựa quá nhiều vào tăng trưởng tín dụng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhất là tín dụng dài hạn, mà thay vào đó, để thúc đẩy tăng trưởng cần thúc đẩy đầu tư công và các nguồn vốn khác để đảm bảo hài hòa giữa các mục tiêu kinh tế vĩ mô, tiền tệ.