Đối sách với thuế của Mỹ: Còn cơ hội để xoay chuyển thế cờ
Các bộ, ngành đang khẩn trương chuẩn bị phương án đàm phán với Mỹ Chính phủ chính thức lập đoàn đàm phán các vấn đề thương mại với Mỹ |
Ngày 18/4, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức Hội thảo “Thuế đối ứng của Mỹ và ứng phó của doanh nghiệp Việt Nam”.
Chia sẻ tại hội thảo, Chủ tịch VCCI Phạm Tấn Công cho biết, ngày 2/4, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã ký ban hành sắc lệnh hành pháp áp dụng mức thuế đối ứng mới lên tất cả hàng hóa nhập khẩu từ các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Trong đó, Việt Nam là một trong những quốc gia bị áp mức thuế cao nhất lên tới 46%. Đây là một bước ngoặt lớn trong chính sách thương mại quốc tế của Mỹ, thể hiện xu hướng bảo hộ, đơn phương và khó lường trong điều hành chính sách thuế quan.
![]() |
TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia. |
Mặc dù phía Mỹ đã tuyên bố tạm hoãn áp dụng thuế riêng trong vòng 90 ngày để mở đường cho đàm phán, nhưng nguy cơ về thuế đối ứng vẫn đang hiện hữu và rất phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro và thách thức lớn đối với doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường Mỹ, thị trường chiếm tỷ trọng cao nhất trong kim ngạch xuất khẩu của chúng ta.
Theo ông Phạm Tấn Công, nếu mức thuế đối ứng bị áp dụng, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ bị tổn thương nặng nề, mất thị phần, giảm sức cạnh tranh, gián đoạn sản xuất, mất việc làm, ảnh hưởng tới tăng trưởng GDP và ổn định kinh tế vĩ mô…
Đồng thời, Chủ tịch VCCI cũng cho rằng, trong nguy luôn có cơ. Đây cũng là thời điểm để chúng ta nhìn lại chiến lược phát triển, nâng cao năng lực nội tại, chủ động thích ứng và định vị lại vai trò của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Cũng theo ông Phạm Tấn Công, thời gian qua, VCCI đã chủ động kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan một số giải pháp với chính sách thuế của Mỹ.
Thứ nhất, đối thoại chiến lược với Mỹ ở cấp cao, nhằm đạt được các thỏa thuận song phương, giảm xung đột, minh bạch thông tin, thúc đẩy nhập khẩu từ Mỹ (LNG, nông sản, công nghệ cao…), cân bằng thương mại và tạo niềm tin chính trị.
Thứ hai, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và chuỗi cung ứng, tận dụng hiệu quả các FTA thế hệ mới như EVFTA, CPTPP, RCEP để mở rộng thị trường tại EU, Canada, Australia… đồng thời khai thác các thị trường tiềm năng như Tây Nam Trung Quốc, Trung Đông, Mỹ Latinh, và phát triển thị trường nội địa.
Thứ ba, tái cấu trúc chuỗi cung ứng và công nghiệp hỗ trợ nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, kiểm soát chặt chẽ nguồn gốc xuất xứ, phát triển công nghiệp nền tảng như hóa chất, vật liệu mới, logistics, công nghệ cao… nhằm giảm phụ thuộc nhập khẩu và rủi ro thương mại.
Thứ tư, tham gia chuỗi cung ứng chiến lược của Mỹ, theo đó đầu tư vào các trung tâm kỹ thuật bán dẫn, công nghiệp xanh, năng lượng tái tạo… để trở thành mắt xích đáng tin cậy thay thế Trung Quốc trong chuỗi giá trị toàn cầu – đây là cơ hội vàng mà Việt Nam cần chủ động nắm bắt.
Thứ năm, nâng cao năng lực thể chế và hạ tầng, cải thiện môi trường đầu tư, minh bạch hóa chính sách, nâng cấp chất lượng nguồn nhân lực và hạ tầng logistics – để doanh nghiệp có thể cạnh tranh hiệu quả và phát triển bền vững.
Nêu quan điểm tại hội thảo, TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia nhìn nhận, chúng ta vẫn còn dư địa để hành động, còn cơ hội để xoay chuyển thế cờ.
TS. Cấn Văn Lực đồng tình với quan điểm điểm các cơ quan quản lý tiếp tục đẩy mạnh các biện pháp xúc tiến quan hệ song phương, tích cực giải quyết những vấn đề phía Mỹ quan tâm, đồng thời triển khai các giải pháp cụ thể nhằm cân bằng cán cân thương mại và hỗ trợ doanh nghiệp bị tác động.
Về phía doanh nghiệp, TS. Cấn Văn Lực khuyến nghị nên tận dụng chính sách hỗ trợ thuế, phí, tín dụng và đẩy mạnh chuyển đổi kép gồm chuyển đổi xanh và số hóa; cần nâng cao năng lực cạnh tranh toàn diện: từ công nghệ, nhân lực đến quản trị rủi ro, minh bạch xuất xứ.
Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần đa dạng hóa không chỉ áp dụng với thị trường, mà còn mở rộng ra cả đối tác, sản phẩm, dịch vụ và nguồn vốn. Đây là chiến lược dài hạn giúp doanh nghiệp thích nghi với biến động toàn cầu, đặc biệt là trong bối cảnh thương mại ngày càng mang tính địa chính trị.
“Chúng ta đang trong vận hội mới cực kỳ quan trọng, cải cách quyết liệt nên phải chuẩn bị tâm thế mới, không bàn lùi, chỉ bàn làm, để đóng góp được nhiều cho đất nước trong kỷ nguyên mới. Không chủ quan, không bi quan vì chúng ta còn nhiều dư địa, cơ hội trước mắt, người Việt luôn đứng vững, chèo chống rất tốt ở những thời điểm khó khăn như hiện nay”, TS. Cấn Văn Lực khẳng định.