Công chức không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp
| Cấm thao túng, trục lợi chính sách làm tha hóa cán bộ, công chức Công chức, viên chức không được thành lập, góp vốn, quản lý doanh nghiệp |
Sáng 16/6, với 455/459 đại biểu Quốc hội có mặt biểu quyết tán thành, đạt 99,12%, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Việc làm (sửa đổi).
Luật Việc làm (sửa đổi) gồm 8 chương, 55 điều; quy định chính sách hỗ trợ tạo việc làm, đăng ký lao động, hệ thống thông tin thị trường lao động, phát triển kỹ năng nghề, dịch vụ việc làm, bảo hiểm thất nghiệp và quản lý nhà nước về việc làm.
Luật quy định, người lao động là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi trở lên có khả năng lao động và có nhu cầu làm việc. Trường hợp lao động chưa thành niên phải bảo đảm điều kiện theo quy định của Bộ luật Lao động.
Nguyên tắc về việc làm là bảo đảm quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nơi làm việc; bình đẳng về cơ hội việc làm, tiền lương và thu nhập; bảo đảm làm việc trong điều kiện an toàn lao động, vệ sinh lao động.
Luật nghiêm cấm phân biệt đối xử trong việc làm; gian lận, giả mạo hồ sơ trong việc thực hiện chính sách về việc làm, dịch vụ việc làm, đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia; lợi dụng hoạt động dịch vụ việc làm xâm phạm đến chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, dân tộc, trật tự, an toàn xã hội, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; khai thác, chia sẻ, mua bán, trao đổi, chiếm đoạt, sử dụng trái phép thông tin, dữ liệu trong cơ sở dữ liệu về người lao động và thông tin về thị trường lao động.
Người lao động có quyền được bảo vệ thông tin đăng ký lao động của bản thân theo quy định của pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân và quy định khác của pháp luật có liên quan; được khai thác thông tin của bản thân trong cơ sở dữ liệu về người lao động; được cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh, cập nhật thông tin đăng ký lao động trong cơ sở dữ liệu về người lao động; được sử dụng thông tin của bản thân trong cơ sở dữ liệu về người lao động trong giao dịch, tiếp cận và thụ hưởng các chính sách hỗ trợ tạo việc làm, đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia, tư vấn, giới thiệu việc làm theo quy định của Luật.
Người lao động có nghĩa vụ thực hiện việc đăng ký lao động theo quy định của Luật; cung cấp đầy đủ, chính xác, trung thực, kịp thời về thông tin đăng ký lao động cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người sử dụng lao động và chịu trách nhiệm về thông tin đã cung cấp; kịp thời thực hiện việc điều chỉnh thông tin trong cơ sở dữ liệu về người lao động khi có thay đổi thông tin quy định tại điểm c khoản 1 Điều 17 của luật này.
![]() |
| Các đại biểu Quốc hội ấn nút biểu quyết. |
Theo quy định của luật vừa được Quốc hội thông qua, các chế độ bảo hiểm thất nghiệp bao gồm: tư vấn, giới thiệu việc làm; hỗ trợ người lao động tham gia đào tạo, nâng cao trình độ kỹ năng nghề; trợ cấp thất nghiệp; hỗ trợ người sử dụng lao động đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động.
Trường hợp khủng hoảng, suy thoái kinh tế, thiên tai, hỏa hoạn, địch họa hoặc dịch bệnh nguy hiểm, căn cứ tình hình thực tế và kết dư Quỹ bảo hiểm thất nghiệp, Chính phủ quy định việc giảm mức đóng bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ bằng tiền hoặc hỗ trợ khác.
Mức đóng và trách nhiệm đóng bảo hiểm thất nghiệp được quy định như sau: người lao động đóng tối đa bằng 1% tiền lương tháng; người sử dụng lao động đóng tối đa bằng 1% quỹ tiền lương tháng của những người lao động đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp; Nhà nước hỗ trợ tối đa 1% quỹ tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của những người lao động đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp và do ngân sách Trung ương bảo đảm.
Luật mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp đối với người lao động có giao kết hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 1 tháng trở lên (hiện nay từ 3 tháng trở lên); người làm việc không trọn thời gian, có tiền lương trong tháng bằng hoặc cao hơn tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp nhất, bảo đảm thống nhất với luật bảo hiểm xã hội năm 2024.
Ngoài ra, mở rộng thêm đối tượng người quản lý doanh nghiệp, kiểm soát viên, người đại diện phần vốn của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật; thành viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc, giám đốc, thành viên ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên và các chức danh quản lý khác được bầu của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có hưởng tiền lương.
Trước đó, có ý kiến đề nghị bổ sung đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp là cán bộ, công chức, viên chức.
Tuy nhiên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội không đồng ý bổ sung vì cho rằng, công chức thường có tính ổn định cao trong công việc, nếu có sự thay đổi về vị trí công tác hoặc sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, công chức có thể được điều chuyển hoặc hưởng chế độ khác theo quy định của pháp luật.
Còn đối với viên chức là người làm việc theo hợp đồng làm việc đã được quy định là đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp tại dự thảo luật.
Ngoài ra, có ý kiến đề nghị nâng mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng lên tối thiểu 65% và cho phép Chính phủ điều chỉnh tăng lên tối đa 75% trong trường hợp khủng hoảng kinh tế, dịch bệnh quy mô lớn.
Có ý kiến đề nghị tăng mức hưởng lên 70% nhưng không quá 5 lần mức lương tối thiểu vùng và cứ mỗi 6 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp thì được hưởng thêm 1 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng tối đa không quá 12 tháng.
Qua rà soát, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, việc Quỹ bảo hiểm thất nghiệp kết dư thời gian qua chủ yếu được tích lũy từ giai đoạn trước, do được Ngân sách nhà nước hỗ trợ hằng năm, khi đó, số đối tượng thụ hưởng các chế độ còn ít. Nhưng từ năm 2020 đến nay thì số thu và chi bảo hiểm thất nghiệp hằng năm là cân bằng nhau.
Theo kinh nghiệm của các quốc gia thực hiện thành công chính sách bảo hiểm thất nghiệp hoặc bảo hiểm việc làm (Canada, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan…) và quy chuẩn quốc tế về bảo hiểm thất nghiệp thì mức trợ cấp thất nghiệp không ít hơn 45% của thu nhập trước đó hoặc không ít hơn 45% của tiền lương tối thiểu theo quy định hoặc của tiền lương của người lao động bình thường nhưng không ít hơn mức sống cơ bản tối thiểu; thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp tối thiểu là 12 tuần (3 tháng) trong thời kỳ 12 tháng.
Bộ luật Lao động quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên (mỗi năm làm việc được trợ cấp 1/2 tháng tiền lương (50% mức tiền lương)) và trợ cấp mất việc làm cho người lao động đã làm việc thường xuyên cho mình từ 12 tháng trở lên (mỗi năm làm việc trả 1 tháng tiền lương (100% mức tiền lương)) nhưng ít nhất phải bằng 2 tháng tiền lương (tối thiểu 200% mức tiền lương).
Mức hưởng là 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp trong 3 tháng tương đối phù hợp với thông lệ quốc tế và các mức trợ cấp mà người lao động được nhận khi mất việc làm theo quy định hiện hành.
Mức này bảo đảm cho người lao động giảm bớt khó khăn, ổn định cuộc sống trong thời gian thất nghiệp cho tới khi tìm được việc làm mới; phù hợp với nguyên tắc đóng - hưởng và khả năng cân đối thu chi của Quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Do vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin được giữ như dự thảo luật



