Có nhiều đề tài nghiên cứu khoa học chưa gắn với nhu cầu thực tế
| Nhà nước sẽ chi 3-4 tỷ USD/năm cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo Đội ngũ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ cần đồng hành cùng Đảng, cùng nhân dân |
Đóng góp ý kiến vào phát triển ngành khoa học xã hội trong phiên thảo luận về kinh tế - xã hội sáng 29/10, đại biểu Quốc hội Hoàng Minh Hiếu (đoàn Nghệ An) nhận thấy, có rất nhiều kết quả, nhận định, đánh giá rất lạc quan.
Theo ông Hiếu, việc thể chế hoá và triển khai những chủ trương, chính sách có tính chiến lược của Đảng trong thời gian vừa qua đã bắt đầu có những tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đặc biệt là những đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Trong năm 2025, Việt Nam duy trì xếp hạng thứ 44/139 nền kinh tế về Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu, xếp thứ 6/40 về Chỉ số AI Thế giới năm 2025.
Tuy nhiên, đại biểu Hoàng Minh Hiếu cũng cho rằng, để phát triển bền vững đất nước, bên cạnh việc phát triển khoa học công nghệ, thì cũng cần chú trọng phát triển các ngành khoa học xã hội, nhân văn bởi ở góc độ nào đó, có thể nói nếu khoa học tự nhiên và công nghệ giúp con người “làm được nhiều hơn”, thì khoa học xã hội giúp con người “hiểu đúng hơn” về chính mình và về xã hội mình đang sống.
Ông Hiếu cho biết, trong thời gian vừa qua, nền khoa học xã hội Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nhưng cũng còn tồn tại nhiều thách thức.
![]() |
| Phiên thảo luận của Quốc hội về các nội dung thuộc lĩnh vực kinh tế - xã hội sáng 29/10 |
Trước hết, đó là sự kết nối của kết quả nghiên cứu khoa học xã hội với việc hoạch định chính sách, phát triển kinh tế - xã hội còn hạn chế. Thực tế là hiện nay đang có tình trạng nhiều đề tài nghiên cứu khoa học xã hội chưa gắn bó chặt chẽ với nhu cầu thực tế của việc hoạch định chính sách của Nhà nước. Nghiên cứu khoa học xã hội nhiều khi mới dừng lại ở mức công bố kết quả mà chưa được chuyển thành chính sách hoặc giải pháp cụ thể, có hiệu quả.
Bên cạnh đó, việc xây dựng chính sách trong một số trường hợp cũng chưa sử dụng tối đa kết quả nghiên cứu khoa học xã hội như là công cụ thiết kế chính sách và đo lường tác động xã hội.
Thứ hai là, cơ chế tài chính và tổ chức nghiên cứu khoa học xã hội chưa linh hoạt, chưa tạo động lực cho hoạt động nghiên cứu. Nhiều chủ trương, chính sách phát triển khoa học và công nghệ ở nước ta cho đến nay cơ bản được xây dựng chung cho cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, nhưng thường xuất phát từ thực trạng và yêu cầu của khoa học tự nhiên và công nghệ hơn là khoa học xã hội và nhân văn.
Trong khi đó, khoa học xã hội nghiên cứu con người và các mối quan hệ xã hội – vốn luôn biến đổi và gắn với giá trị, văn hóa, và bối cảnh chính trị. Do đó, phương pháp tiếp cận của khoa học xã hội không thể áp dụng tương tự như từ các mô hình khoa học tự nhiên mà cần cơ chế tài trợ, đánh giá, công nhận và triển khai linh hoạt hơn, dựa trên chất lượng học thuật và giá trị xã hội, chứ không chỉ dựa trên việc thương mại hóa kết quả nghiên cứu.
![]() |
| Đại biểu Quốc hội Hoàng Minh Hiếu (đoàn Nghệ An) |
Thứ ba là hạ tầng dữ liệu, phương pháp nghiên cứu, chuyển đổi số cho khoa học xã hội còn chậm được đổi mới. Phương pháp nghiên cứu truyền thống vẫn chiếm ưu thế, chưa thực sự chuyển hướng mạnh sang phương pháp nghiên cứu hiện đại. Việc số hóa dữ liệu, chuẩn hóa dữ liệu phục vụ nghiên cứu, ứng dụng các phương pháp mới vẫn có nhiều rào cản các hệ thống dữ liệu phục vụ nghiên cứu còn phân tán, chưa chuẩn hóa, kỹ năng phân tích chưa đầy đủ.
Theo đại biểu Hoàng Minh Hiếu, trong bối cảnh hiện nay, bên cạnh sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật với sự ra đời của rất nhiều công nghệ mới thì nhu cầu phát hiện, lý giải và đề xuất giải pháp cho những vấn đề xã hội, pháp lý, đạo đức, giá trị con người mà công nghệ mới đặt ra là rất cấp thiết.
Ông Hiếu nêu ví dụ như chúng ta đang nói nhiều về trí tuệ nhân tạo. Sự ra đời của trí tuệ nhân tạo là kết quả của quá trình nghiên cứu lâu dài trong lĩnh vực khoa học máy tính nhưng đi kèm với nó là hàng loạt vấn đề xã hội đặt ra.
Chẳng hạn như các câu hỏi: sản phẩm do AI tạo ra thuộc về ai; làm thế nào để hệ thống trí tuệ nhân tạo không tạo ra sự phân biệt đối xử; việc cho phép hệ thống trí tuệ nhân tạo đưa ra quyết định sinh tử mà không có sự can thiệp của con người sẽ gây ra những vấn đề về đạo đức như thế nào; trách nhiệm pháp lý khi để xảy ra rủi ro trong quá trình sử dụng hệ thống trí tuệ nhân tạo sẽ thuộc về ai, người sử dụng AI hay người đã tạo ra thuật toán cho hệ thống AI… Việc giải quyết những vấn đề này chính là nhiệm vụ của khoa học xã hội.
Trước những vấn đề nêu trên, đại biểu Hoàng Minh Hiếu đề nghị trong thời gian sắp tới, Chính phủ cần sớm nghiên cứu, có những giải pháp đầu tư, phát triển ngành khoa học xã hội để phù hợp với bối cảnh mới.
Trong đó, cần nghiên cứu xây dựng những chương trình phát triển khoa học xã hội – nhân văn trọng điểm trong đó tập trung vào những vấn đề mới, gắn với sự phát triển của các công nghệ mới phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội như các vấn đề pháp lý đối với việc sử dụng các công nghệ mới, nghiên cứu xã hội học số, các vấn đề an ninh phi truyền thống mới xuất hiện...
Đồng thời đổi mới cơ chế tài chính và đánh giá khoa học xã hội, áp dụng cơ chế các cơ quan nhà nước đặt hàng nghiên cứu khoa học xã hội để phục vụ việc hoạch định các chính sách cụ thể; tiếp tục đổi mới quy trình hoạch định chính sách để tăng cường hàm lượng khoa học trong việc ra quyết định.
Ông Hiếu cũng đề xuất cần đa dạng hóa hình thức công bố và ghi nhận giá trị của các nghiên cứu như dưới dạng báo cáo chính sách, tư vấn pháp lý, dữ liệu xã hội…; tăng kinh phí cho các đề tài khoa học xã hội có tính ứng dụng thực tế cao mà không chỉ đánh giá dựa vào số lượng bài báo công bố kết quả nghiên cứu.
Cùng đó, cần có các giải pháp phát triển nguồn nhân lực khoa học xã hội chất lượng cao như tăng đầu tư cho đào tạo sau đại học, hợp tác quốc tế. Có chính sách trọng dụng các nhà khoa học xã hội có bản lĩnh, trí tuệ, có nhiều đóng góp cho quá trình hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đại biểu cũng kiến nghị xây dựng hạ tầng dữ liệu xã hội và hệ sinh thái học thuật số cho khoa học xã hội, đưa chuyển đổi số vào phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội – từ việc phân tích dữ liệu lớn, mô phỏng xã hội, đến hệ thống hóa tri thức văn hoá.
Cuối cùng, cần tăng cường liên kết giữa khoa học xã hội và khoa học tự nhiên, ví dụ như vấn đề “trí tuệ nhân tạo và pháp luật” đã nêu ở trên, hoặc nghiên cứu tác động xã hội, nhu cầu cộng đồng khi triển khai các đề án chuyển đổi số ở những địa bàn nhất định. Đây chính là “vùng giao thoa” – nơi khoa học xã hội cung cấp khung giá trị và thể chế để đảm bảo cho công nghệ phát triển đúng hướng.




