“Vỡ” kế hoạch thoái vốn, cổ phần hóa của Thủ tướng vì chưa thực sự nghiêm túc
Chưa đến nửa tháng, Hà Nội còn 13 doanh nghiệp phải cổ phần hóa |
Cục Tài chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính) cho biết, trong năm 2020, đơn vị nhận được báo cáo phê duyệt phương án cổ phần hóa của 7 doanh nghiệp. Lũy kế giai đoạn 2016 - 2020 đã có 178 doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cổ phần hóa với tổng giá trị là 443.503 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn Nhà nước là 207.116 tỷ đồng.
Tuy nhiên trong số 178 doanh nghiệp đã cổ phần hóa thì chỉ có 37/128 doanh nghiệp cổ phần hóa thuộc danh mục cổ phần hóa theo Công văn số 991/TTg-ĐMDN và Quyết định số 26/2019/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (đạt 28% kế hoạch). Như vậy, tiến độ cổ phần hóa các doanh nghiệp còn chậm.
Việc phê duyệt phương án sắp xếp lại, xử lý nhà đất của Agribank chậm hơn so với dự kiến, hiện vẫn còn 194 cơ sở nhà, đất chưa được Bộ Tài chính phê duyệt |
Những đơn vị còn nhiều doanh nghiệp thuộc danh sách phải thực hiện cổ phần hóa trong năm 2020 như: TP Hà Nội còn 13 doanh nghiệp (4 Tổng công ty), chiếm 14% kế hoạch; TP HCM còn 38 doanh nghiệp (11 Tổng công ty), chiếm 40% kế hoạch; Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp còn 6 doanh nghiệp (3 Tập đoàn, 3 Tổng công ty); Bộ Công thương còn 4 doanh nghiệp (3 Tổng công ty, trong đó đã công bố giá trị 1 Tổng công ty); Bộ Xây dựng còn 2 Tổng công ty.
Đánh giá về kết quả cổ phần hóa, Cục Tài chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính) cho biết, giai đoạn 2016 - 2020 đã cổ phần hóa được 178 doanh nghiệp, theo đó đã đạt và vượt chỉ tiêu đề ra, tuy nhiên chỉ có 37 doanh nghiệp thuộc kế hoạch cổ phần hóa, theo kế hoạch (đã được rà soát và điều chỉnh). Như vậy còn 91 doanh nghiệp chưa hoàn thành công tác cổ phần hóa.
Bên cạnh đó, theo kế hoạch được phê duyệt, tổng giá trị dự kiến bán cho các đối tượng (nhà đầu tư chiến lược, cán bộ công nhân viên, tổ chức công đoàn, bán đấu giá công khai) là 98.748 tỷ đồng tương đương 48% giá trị phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
Tuy nhiên, thực tế triển khai bán cổ phần đã không thành công theo kế hoạch, tổng giá trị thực tế bán được là 22.748 tỷ đồng (đạt 23% kế hoạch dự kiến bán, tương đương 11% giá trị phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp). Mặc dù vậy, tổng giá trị thu về Quỹ Hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp từ công tác cổ phần hóa là 36.145 tỷ đồng (đạt 1,6 lần so với giá bán).
Về công tác thoái vốn, theo Cục Tài chính doanh nghiệp, trong năm 2020, cả nước đã thoái được 2.505,6 tỷ đồng, thu về 5.965,7 tỷ đồng, trong đó thoái vốn tại 13 doanh nghiệp theo kế hoạch của Thủ tướng Chính phủ ban hành với giá trị 1.788 tỷ đồng, thu về 4.617 tỷ đồng.
Lũy kế tổng số thoái vốn từ năm 2016 - 2020 là 27.275 tỷ đồng, thu về 177.037 tỷ đồng. Trong đó, thoái vốn Nhà nước tại 105 đơn vị thuộc Quyết định số 1232/QĐ-TTg và Quyết định số 908/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ với giá trị 6.492 tỷ đồng, thu về 13.582 tỷ đồng (đạt 30% về số lượng và 11% về giá trị so với kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt).
Trong khi đó, thoái vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp ngoài danh mục theo Quyết định số 1232/QĐ-TTg là 3.785 tỷ đồng, thu về 110.392 tỷ đồng (bao gồm khoản thoái 3.436 tỷ đồng, thu về 109.965 tỷ đồng tại Sabeco). Các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước thực hiện thoái 16.996 tỷ đồng, thu về 53.063 tỷ đồng.
Nêu nguyên nhân khiến công tác cố phần hóa, thoái vốn bị chậm, theo Cục Tài chính doanh nghiệp, các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại giai đoạn này hầu hết là các doanh nghiệp lớn, có tình hình tài chính phức tạp, sở hữu nhiều đất đai; hoặc là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công ích, gắn liền với các hoạt động của địa phương, đóng góp vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thực hiện các chiến lược, mục tiêu về an sinh xã hội của địa phương.
Bên cạnh đó, diễn biến khó lường của dịch bệnh Covid-19 khiến cho sản xuất, kinh doanh và các hoạt động khác của xã hội bị đình trệ khiến cho việc triển khai công tác cổ phần hóa, thoái vốn của các doanh nghiệp gặp khó khăn.
Việc cơ quan đại diện chủ sở hữu, doanh nghiệp Nhà nước, Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty Nhà nước phải xử lý các vướng mắc, tồn tại, khó khăn trong việc triển khai cổ phần hóa, thoái vốn giai đoạn 2011 - 2015, do đó ảnh hưởng đến tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn giai đoạn 2016-2020 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Đặc biệt, theo Cục Tài chính doanh nghiệp, trong quá trình tổ chức thực hiện của một số Bộ, ngành, địa phương, Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty Nhà nước còn chưa thực sự nghiêm túc triển khai kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Mặt khác, công tác lập kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn để trình các cơ quan có thẩm quyền ban hành danh mục cổ phần hóa, thoái vốn giai đoạn 2016 - 2020 chưa sát với thực tế triển khai.
Ngoài ra, vai trò, nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu doanh nghiệp, đơn vị còn chưa cao, chưa quyết liệt trong việc đổi mới hoạt động của doanh nghiệp, công khai minh bạch, đúng quy định pháp luật, đảm bảo nguyên tắc thị trường, chống lợi ích nhóm trong cổ phần hóa và thoái vốn Nhà nước.
Nêu ra các giải pháp để tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại doanh nghiệp trong giai đoạn tới, Cục Tài chính doanh nghiệp cho rằng cần sớm hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách, trong đó hoàn thiện cơ sở pháp lý để xử lý dứt điểm những dự án thua lỗ, kém hiệu quả.
Bên cạnh đó, xây dựng danh mục tiêu chí doanh nghiệp Nhà nước thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn theo hướng tạo chủ động, gắn trách nhiệm cho cơ quan đại diện chủ sở hữu quyết định tiến độ thời gian việc sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Đồng thời tiếp tục đẩy mạnh công tác cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp hiệu quả, công khai, minh bạch, không để xảy ra tình trạng thất thoát vốn nhà nước, có cơ chế giám sát, phát hiện, xử lý kịp thời những vi phạm trong quá trình triển khai thực hiện.
Mặt khác, Cục Tài chính doanh nghiệp cũng đề xuất tăng cường công khai, minh bạch thông tin của các doanh nghiệp Nhà nước, đảm bảo dễ dàng tiếp cận, kiểm tra, theo dõi, đánh giá. Tăng cường trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp; phân biệt trách nhiệm của cơ quan quản lý phần vốn Nhà nước với người quản lý doanh nghiệp.