Trong tình trạng khẩn cấp, Thủ tướng được dùng biện pháp mà pháp luật chưa quy định

Trong trường hợp thật cần thiết, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, sau khi được sự đồng ý của cấp có thẩm quyền, Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp mà pháp luật chưa quy định để ứng phó, khắc phục tình trạng khẩn cấp hoặc áp dụng các biện pháp quy định trong Luật Tình trạng khẩn cấp khi chưa ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp.
Tăng quyền cho Thủ tướng để ứng phó linh hoạt tình trạng khẩn cấp Đề xuất quy định bắt người trong trường hợp khẩn cấp để dẫn độ

Chiều 27/10, Quốc hội nghe Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại, Thượng tướng Lê Tấn Tới, thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trình bày báo cáo tóm tắt giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Tình trạng khẩn cấp.

Về tình trạng khẩn cấp (Điều 2), Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại, Thượng tướng Lê Tấn Tới cho biết, qua nghiên cứu kinh nghiệm các nước và rà soát các quy định về tình trạng khẩn cấp trong các luật chuyên ngành cho thấy, khái niệm về tình trạng khẩn cấp cần được khái quát cao, bao hàm được những yếu tố, đặc điểm quan trọng nhất của tình trạng khẩn cấp.

Trong tình trạng khẩn cấp, Thủ tướng được dùng biện pháp mà pháp luật chưa quy định
Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại, Thượng tướng Lê Tấn Tới trình bày báo cáo tóm tắt giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Tình trạng khẩn cấp.

Thực tế các sự cố, tình huống khẩn cấp rất đa dạng, trong nhiều lĩnh vực, có tính chất, mức độ, diễn biến, đặc điểm khác nhau, nên việc lượng hóa để xác định ngưỡng chuyển từ tình huống cấp bách sang tình trạng khẩn cấp là khó khả thi; có những sự cố, thảm họa khi có nguy cơ xảy ra hoặc xảy ra đã phải ban bố ngay tình trạng khẩn cấp mà không qua các cấp độ phòng thủ dân sự (sóng thần, sự cố bức xạ, hạt nhân…).

Bên cạnh đó, các tình huống về quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội dẫn đến tình trạng khẩn cấp thì không áp dụng cấp độ phòng thủ dân sự để ứng phó, khắc phục.

Trên cơ sở ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã sửa tên Điều thành “Tình trạng khẩn cấp” và quy định thành 2 khoản như Điều 2 dự thảo luật tiếp thu, chỉnh lý.

Về các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp (Chương III), trên cơ sở ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo nghiên cứu, chỉnh lý Chương III quy định các biện pháp áp dụng trong tình trạng khẩn cấp tương ứng với 3 loại tình trạng khẩn cấp, để thống nhất các nội dung trong dự thảo Luật, chỉ quy định 3 loại tình trạng khẩn cấp gồm: Tình trạng khẩn cấp khi có thảm họa; tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, tương ứng với các biện pháp áp dụng phù hợp (Điều 13, 14 và Điều 15 dự thảo luật tiếp thu, chỉnh lý). Đồng thời, bổ sung 1 điều (Điều 12) quy định về nguyên tắc, thẩm quyền áp dụng biện pháp trong tình trạng khẩn cấp.

Theo đó, trong trường hợp thật cần thiết, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, sau khi được sự đồng ý của cấp có thẩm quyền, Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp mà pháp luật chưa quy định để ứng phó, khắc phục tình trạng khẩn cấp hoặc áp dụng các biện pháp quy định trong Luật này khi chưa ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp;

Trong trường hợp cần thiết, Thủ tướng Chính phủ ủy quyền cho Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định áp dụng biện pháp quy định tại điểm a khoản này. Chủ tịch UBND các cấp, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, quyết định áp dụng biện pháp phòng thủ dân sự được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp.

Về chỉ đạo, chỉ huy và lực lượng trong tình trạng khẩn cấp, trên cơ sở ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉnh lý Điều 25 dự thảo luật Chính phủ trình, theo đó, làm rõ trách nhiệm của các Ban chỉ đạo, chỉ huy quy định trong pháp luật chuyên ngành, khi ban bố tình trạng khẩn cấp. Đồng thời sửa tên Điều thành “Cơ quan chỉ đạo, chỉ huy trong tình trạng khẩn cấp” cho phù hợp.

Về lực lượng trong tình trạng khẩn cấp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉnh lý quy định về lực lượng trong tình trạng khẩn cấp, gồm lực lượng nòng cốt và lực lượng rộng rãi.

Cụ thể, lực lượng rộng rãi do toàn dân tham gia. Lực lượng nòng cốt là lực lượng quân đội, công an, dân quân tự vệ, lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở; lực lượng của các bộ, ngành và địa phương. Đội ứng phó khẩn cấp, đội công tác tuyên truyền đặc biệt, đội tuần tra đặc biệt được thành lập từ lực lượng nòng cốt.

Trong trường hợp cần thiết, Thủ tướng Chính phủ đề nghị Chủ tịch nước điều động lực lượng vũ trang đến địa bàn ban bố tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an điều động lực lượng thuộc quyền đến địa bàn ban bố tình trạng khẩn cấp về thảm họa để hỗ trợ các lực lượng tại chỗ ứng phó, cứu hộ, khắc phục hậu quả của thảm họa hoặc để ổn định, duy trì an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Trong tình trạng khẩn cấp, ngoài người có thẩm quyền tạm giữ người, xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật, Đội trưởng Đội tuần tra đặc biệt có thẩm quyền tạm giữ người vi phạm hành chính và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính như thẩm quyền của Đồn trưởng Đồn Biên phòng, Trưởng Công an cấp xã quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính.

Hậu Lộc
Phiên bản di động