Thủ tướng được dùng biện pháp mà pháp luật chưa quy định trong tình trạng khẩn cấp
| Trong tình trạng khẩn cấp, Thủ tướng được dùng biện pháp mà pháp luật chưa quy định Tăng quyền cho Thủ tướng để ứng phó linh hoạt tình trạng khẩn cấp |
Tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, chiều 3/12, với đại đa số đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành (419/420 đại biểu, bằng 88,58% tổng số đại biểu), Quốc hội đã thông qua Luật Tình trạng khẩn cấp.
Luật quy định, tình trạng khẩn cấp là trạng thái xã hội được cấp có thẩm quyền ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp tại một hay nhiều địa phương hoặc trên phạm vi cả nước khi có thảm họa hoặc nguy cơ xảy ra thảm họa đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe con người, tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân hoặc có tình hình đe dọa nghiêm trọng đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Tình trạng khẩn cấp bao gồm: Tình trạng khẩn cấp về thảm họa; tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; tình trạng khẩn cấp về quốc phòng.
Về thẩm quyền, luật nêu rõ Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp. Căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước ra lệnh công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp. Trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được, Chủ tịch nước ra lệnh công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp.
Thủ tướng đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp. Nếu Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được, Thủ tướng đề nghị Chủ tịch nước ra lệnh công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp.
![]() |
| Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Tình trạng khẩn cấp |
Tình trạng khẩn cấp được bãi bỏ khi không còn nguy cơ xảy ra thảm họa hoặc thảm họa đã được ngăn chặn, khắc phục; tình hình quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội đã ổn định.
Với thẩm quyền của Thủ tướng trong trường hợp khẩn cấp, luật quy định rõ nếu thật cần thiết, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, tính mạng, sức khỏe của người dân, sau khi được sự đồng ý của cấp có thẩm quyền, Thủ tướng có quyền quyết định áp dụng các biện pháp mà pháp luật chưa quy định để ứng phó, khắc phục tình trạng khẩn cấp, hoặc áp dụng các biện pháp quy định trong luật này khi chưa ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp.
Thủ tướng sẽ báo cáo việc áp dụng các biện pháp này với cơ quan có thẩm quyền của Đảng, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong thời gian gần nhất.
Trước khi ấn nút thông qua, trình bày báo cáo tóm tắt giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Tình trạng khẩn cấp, Thượng tướng Lê Tấn Tới, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại của Quốc hội cho biết, về thông tin về tình trạng khẩn cấp (Điều 11), hiện nay, số điện thoại 112 đang được sử dụng để tiếp nhận nội dung thông tin về sự cố, thiên tai, thảm họa, những nguy cơ xảy ra, yêu cầu trợ giúp của tổ chức, cá nhân trong phạm vi toàn quốc; Bộ Chỉ huy Quân sự cấp tỉnh là cơ quan thường trực Ban Chỉ huy phòng thủ dân sự cùng cấp có trách nhiệm quản lý, vận hành, tiếp nhận xử lý thông tin, phản ánh, và những yêu cầu trợ giúp của tổ chức, cá nhân.
![]() |
| Thủ tướng Phạm Minh Chính. |
Trên cơ sở ý kiến đại biểu Quốc hội, để chặt chẽ, thống nhất với quy định về các biện pháp khắc phục hậu quả trong trạng khẩn cấp và cứu trợ, hỗ trợ khẩn cấp và bảo đảm thông tin liên lạc phục vụ ứng phó, khắc phục trạng khẩn cấp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã bổ sung, chỉnh lý khoản 3 Điều này như dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua.
Theo đó, người đứng đầu cơ quan, tổ chức và chính quyền địa phương công bố thông tin kịp thời, thông suốt, chính xác về trạng khẩn cấp đến người dân, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp; trong phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của mình, tiếp nhận thông tin từ người dân, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp để thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả trong tình trạng khẩn cấp và cứu trợ, hỗ trợ khẩn cấp; bảo đảm thông tin liên lạc phục vụ ứng phó, khắc phục tình trạng khẩn cấp.
Luật Tình trạng khẩn cấp quy định sử dụng số điện thoại 112 để tiếp nhận, xử lý thông tin tình trạng khẩn cấp về thảm họa trên phạm vi toàn quốc.
Về biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp khi có thảm họa, Luật Tình trạng khẩn cấp quy định, trên địa bàn được đặt trong tình trạng khẩn cấp khi xảy ra hoặc có nguy cơ xảy ra thảm họa về thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, sự cố bức xạ, hạt nhân hoặc sự cố khác có thể áp dụng một hoặc một số biện pháp.
Trong đó có di dời, cưỡng chế di dời người dân trong các khu vực nguy hiểm đến nơi an toàn; yêu cầu các doanh nghiệp chuyển đổi sản xuất, kinh doanh hàng hóa cần thiết cho ứng phó thảm họa; kiểm tra, xử lý nghiêm các trường hợp buôn lậu, gian lận thương mại, đầu cơ, gây khan hiếm giả, sản xuất hàng giả đối với hàng hóa thiết yếu phục vụ phòng, chống dịch bệnh; sử dụng vũ lực, vũ khí, công cụ hỗ trợ theo quy định của pháp luật để ngăn chặn, bắt giữ người và phương tiện vi phạm…
Về lực lượng phòng ngừa, ứng phó, khắc phục tình trạng khẩn cấp, Luật Tình trạng khẩn cấp quy định bao gồm: lực lượng nòng cốt và lực lượng rộng rãi. Trong đó, lực lượng nòng cốt gồm lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, Dân quân tự vệ, lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở; lực lượng của các Bộ, ngành và địa phương.
Cũng theo quy định của luật, Đội ứng phó khẩn cấp, Đội công tác tuyên truyền đặc biệt, Đội tuần tra đặc biệt được thành lập từ lực lượng nòng cốt. Lực lượng rộng rãi do toàn dân tham gia.




