Sử dụng huyết tương điều trị Covid-19 là hướng mới, nên thử nghiệm?
Sớm thực hiện liệu pháp sử dụng huyết tương điều trị Covid-19 Việt Nam sẽ dùng huyết tương điều trị Covid-19 |
Vừa qua, PGS.TS Lương Ngọc Khuê, Cục trưởng Cục quản lý Khám, chữa bệnh, Phó Trưởng Tiểu ban Điều trị, Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng chống Covid-19 đã chủ trì cuộc họp Hội đồng chuyên môn nghiệm thu Hướng dẫn tạm thời về tiếp nhận và sử dụng huyết tương trong điều trị Covid-19 tại Trung tâm quản lý, điều hành trực tuyến hỗ trợ chuyên môn, chẩn đoán, điều trị Covid-19.
Việc sử dụng huyết tương được xem xét, đánh giá như một liệu pháp mới có tiềm năng nhằm tăng thêm công cụ cho thầy thuốc điều trị người bệnh Covid-19, đặc biệt là bệnh nhân nặng.
| |
(Ảnh minh họa) |
Về vấn đề này, Ths.BS Nguyễn Hồng Hà, Nguyên Phó Giám đốc Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, Phó Chủ tịch Hội truyền nhiễm Việt Nam cũng cho biết, hiện công tác điều trị cho người mắc Covid-19 trên thế giới cũng như ở Việt Nam còn khó khăn do chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, chưa có vaccine phòng bệnh. Tất cả đều đang nghiên cứu và thử nghiệm các phương pháp chữa bệnh để tìm mọi cách cứu chữa người bệnh.
“Huyết tương của những người nhiễm đã khỏi, có nghĩa là đã sinh ra được kháng thể chống virus trong cơ thể của họ. Quá trình tách chiết, lấy huyết tương truyền cho những người bệnh nặng để hy vọng có thể điều trị, tiêu diệt được virus. Ngoài những giải pháp đã thực hiện thì đây cũng được coi là giải pháp cuối cùng, nếu có tác dụng giúp cơ thể kháng được virus, cải thiện bệnh là điều mà ai cũng mong muốn” - BS Nguyễn Hồng Hà cho biết.
Các chuyên gia cho rằng, hiện nay việc sử dụng huyết tương trong điều trị Covid-19 cũng là một liệu pháp mà thế giới đang thử nghiệm và Việt Nam cũng đang đi theo hướng này.
Theo các chuyên gia, trong tình hình dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp, việc sử dụng huyết tương người điều trị khỏi bệnh cần được xem xét, đánh giá như một liệu pháp mới có tiềm năng nhằm tăng thêm công cụ cho thầy thuốc điều trị người bệnh, đặc biệt là những trường hợp tiến triển nặng và bệnh nặng. Điều quan trọng nhất trong Hướng dẫn này là lựa chọn người hiến huyết tương như thế nào và vấn đề sử dụng huyết tương.
Bên cạnh đó, việc bảo đảm an toàn việc hiến huyết tương của người điều trị khỏi bệnh Covid-19 cũng được đặt lên hàng đầu để ngăn ngừa nguy cơ lây nhiễm SAR-CoV-2 và các tác nhân gây bệnh khác cho người bệnh, nhân viên y tế và cộng đồng.
Theo TS. Bạch Quốc Khánh,Viện trưởng Viện Huyết học và Truyền máu Trung ương, từ nhiều năm nay, huyết tương từ những người khỏi bệnh được sử dụng để điều trị giảm các triệu chứng và khả năng thiệt mạng của một số bệnh lây nhiễm như: Ebola, SARS, MERS và cúm H1N1…Tuy nhiên, không phải thử nghiệm nào cũng cho kết quả khả quan. “Với virus Ebola, vừa qua, các nhà khoa học nghiên cứu và đưa ra kết luận việc dùng huyết tương từ người khỏi bệnh không cho thấy hiệu quả trong điều trị cho bệnh nhân nhiễm Ebola”- TS.BS Bạch Quốc Khánh cho biết.
Theo TS Khánh, tình hình dịch bệnh Covid-19 tại Việt Nam và thế giới hiện nay còn phức tạp. Bởi bệnh chưa có vaccine phòng bệnh cũng như thuốc điều trị đặc hiệu. Do vậy, thời gian gần đây, một số quốc gia đã thử nghiệm phương pháp điều trị cho bệnh nhân mắc Covid-19 bằng huyết tương được lấy từ người bệnh sau khi đã khỏi bệnh.
Các nước thử nghiệm phương pháp này như Canada, Mỹ, Pháp, Trung Quốc, Singapore, Hàn Quốc… bước đầu đã cho thấy hiệu quả.
Tuy những thử nghiệm trên thế giới vẫn còn ít, hiệu quả chưa thực sự rõ rệt do người bệnh nặng cũng cần kết hợp điều trị bằng các phương pháp khác, nhưng nghiên cứu mở thêm cơ hội về hướng điều trị cho bệnh nhân nặng mắc Covid-19, trong đó có Việt Nam.
“Huyết tương của người khỏi bệnh có chứa kháng thể chống lại virus corona. Khi truyền vào cơ thể bệnh nhân nặng (có tải lượng virus cao), kháng thể sẽ phát huy tác dụng, hỗ trợ diệt virus ở bệnh nhân”- BS Khánh cho hay.
Tuy nhiên, BS Khánh cho rằng, đây là biện pháp mới với nước ta trong điều trị Covid-19 nên cần được nghiên cứu từ các cách thu thập an toàn và đảm bảo chất lượng trong quá trình xử lý, bảo quản, cung cấp, đến việc chỉ định hợp lý và sử dụng lâm sàng một cách hiệu quả. Vì vậy trong khi các hướng dẫn và thử nghiệm ở các nước còn chưa đầy đủ thì rất cần sự hợp tác và phối hợp chặt chẽ của nhiều đơn vị.