Quy định hoãn xuất cảnh bị kêu gây khó doanh nghiệp: Tổng cục Thuế nói gì?
Tạm hoãn xuất cảnh Giám đốc Công ty Cổ phần Thương mại Sơn Thạch Nợ thuế 30.388 tỷ đồng, gần 18.000 người bị hoãn xuất cảnh |
Thu được 1.844 tỷ đồng sau khi tạm hoãn xuất cảnh
Trong thời gian vừa qua, vấn đề áp dụng tạm hoãn xuất cảnh theo quy định đối với người nợ thuế có khoản tiền thuế nợ quá hạn thuộc trường hợp đang bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế, đặc biệt là các trường hợp không còn hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký đã được ngành thuế áp dụng đồng bộ các giải pháp cảnh báo nợ thuế.
Tuy nhiên, một bộ phận doanh nghiệp và người nộp thuế vẫn chưa hết băn khoăn vì quy định “tạm hoãn xuất cảnh”.
Lên tiếng về vấn đề này, Tổng cục Thuế cho biết, cơ quan thuế đang triển khai biện pháp tạm hoãn xuất cảnh theo đúng quy định pháp luật tại Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam; Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam; Luật Quản lý thuế; Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ.
Theo đó, các trường hợp bị tạm hoãn xuất cảnh bao gồm: Cá nhân, cá nhân là người đại diện theo pháp luật của người nộp thuế là doanh nghiệp thuộc trường hợp đang bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế; người Việt Nam xuất cảnh để định cư ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài trước khi xuất cảnh từ Việt Nam chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế.
Tổng cục Thuế cho biết, về cơ bản, các quy định về tạm hoãn xuất cảnh đối với các trường hợp chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế đã được quy định tại Luật Quản lý thuế. Từ cuối năm 2023 ngành thuế đã đẩy mạnh áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh đặc biệt đối với các trường hợp bỏ địa chỉ đã đăng ký kinh doanh do số nợ của người nộp thuế bỏ địa chỉ đã đăng ký trên cả nước là khá lớn (15.602 tỷ đồng).
Các quy định về tạm hoãn xuất cảnh đối với các trường hợp chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế đã được quy định tại Luật Quản lý thuế. |
Đối với các trường hợp bị tạm hoãn xuất cảnh, cơ quan thuế đã thực hiện rà soát, đối chiếu, xác định chính xác nghĩa vụ nộp thuế của người nộp thuế thuộc trường hợp bị tạm hoãn xuất cảnh trước khi thực hiện gửi “thông báo tạm hoãn xuất cảnh” đến cơ quan quản lý xuất nhập cảnh đồng thời gửi người nộp thuế để người nộp thuế được biết và hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế trước khi xuất cảnh theo đúng trình tự, thủ tục quy định.
Tổng cục Thuế cho biết, thời gian qua, ngành thuế đã triển khai nhiều kênh thông tin để thông báo, nhắc nhở, cảnh báo người nộp thuế về nghĩa vụ nộp thuế, trong đó có thông báo qua ứng dụng thuế điện tử eTax Mobile và cả nhắn tin tới người nộp thuế, do đó người nộp thuế nợ thuế phải có trách nhiệm hoàn thành các nghĩa vụ thuế.
Trong quá trình áp dụng triển khai các biện pháp quản lý nợ thuế trên cả nước, cơ quan thuế nhận được nhiều phản ánh từ người nộp thuế về việc bất ngờ nhận được thông báo tạm hoãn xuất cảnh..., cũng như những phản ứng đối phó của người nộp thuế như thay đổi người đại diện pháp luật khi có thông báo tạm hoãn xuất cảnh.
Trước tình hình trên, cơ quan thuế chủ động nắm bắt thông tin phản ánh, rà soát đảm bảo người nộp thuế nhận được thông tin nợ thuế, thông tin về thông báo tạm hoãn xuất cảnh.
Thực tế cho thấy, nhiều cá nhân khi biết được thông tin về các biện pháp đôn đốc thu hồi nợ thuế của cơ quan thuế, nhất là các quy định về tạm hoãn xuất cảnh qua các phương tiện truyền thông đại chúng đã tự giác đi nộp những khoản thuế nợ từ nhiều năm trước đó. Nhiều doanh nghiệp đã tập trung thu xếp nguồn tài chính để hoàn thành nghĩa vụ thuế nhằm được gỡ bỏ tạm hoãn xuất cảnh.
Cơ quan thuế đã thu được 1.844 tỷ đồng của 2.873 người nộp thuế đang bị tạm hoãn xuất cảnh (đó là chưa tính đến khoản nợ thuế cơ quan thuế thu được do người nộp thuế chủ động nộp khi chưa bị tạm hoãn xuất cảnh). Kết quả thu hồi nợ thuế 9 tháng 2024 đạt khá, cơ quan thuế đã thu được 56.092 tỷ đồng, tăng 30% so với cùng kỳ năm 2023.
Với 1.844 tỷ đồng đã cho thấy tính hiệu quả trong việc thực hiện các quy định của pháp luật trong công tác quản lý nợ thuế mà ngành thuế triển khai (số thu được lớn hơn tổng số thu của 2 địa phương có số thu thấp).
Bên cạnh đó có thể khẳng định sự tham gia hết sức tích cực của các bộ, ngành và cơ quan có liên quan như Cục Quản lý xuất nhập cảnh (Bộ Công An); sự quan tâm chỉ đạo của UBND các tỉnh, thành phố và đặc biệt là sự vào cuộc hết sức khẩn trương, hiệu quả của các cơ quan thông tấn báo chí đã phối hợp với ngành thuế trong công tác truyền thông về công tác quản lý nợ thuế.
Nghiên cứu mức nợ thuế với từng đối tượng bị cấm xuất cảnh
Bên cạnh những kết quả tích cực trong công tác quản lý nợ thuế, trong quá trình triển khai, ngành Thuế cũng đã tiếp nhận được những ý kiến của doanh nghiệp và người nộp thuế cho rằng đã có những bất cập khi triển khai biện pháp tạm hoãn xuất cảnh.
Theo đó, khi tạm hoãn xuất cảnh đối với người đại diện pháp luật, cơ quan thuế nhận được ý kiến trái chiều cho rằng người đại diện pháp luật có khi chỉ là người lao động làm thuê cho doanh nghiệp, không phải là chủ sở hữu hay người nắm giữ cổ phần của doanh nghiệp.
Theo quy định hiện hành thì chưa có quy định cụ thể về mức nợ thuế (ngưỡng) bị áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh trong quá trình thực hiện tạm hoãn xuất cảnh. |
Tuy nhiên, theo quy định của Luật Doanh nghiệp hiện hành, người đại điện pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại điện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
Việc xem xét đối tượng nào thực sự là người chịu trách nhiệm với khoản nợ, là người đại diện pháp luật hay người chủ sở hữu hay người nắm giữ cổ phần... là nội dung cần được cân nhắc, nghiên cứu.
Bên cạnh đó, theo quy định hiện hành thì chưa có quy định cụ thể về mức nợ thuế (ngưỡng) bị áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh trong quá trình thực hiện tạm hoãn xuất cảnh.
Tại tiết a Khoản 2 Điều 21 Nghị định 126 quy định “Thẩm quyền quyết định tạm hoãn xuất cảnh...” là “Thủ trưởng cơ quan quản lý thuế quản lý trực tiếp người nộp thuế ”. Do đó, Thủ trưởng cơ quan quản lý thuế căn cứ tình hình thực tế và công tác quản lý thuế trên địa bàn để quyết định áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh đối với từng trường hợp nợ thuế cụ thể.
Tổng cục Thuế cho biết sẽ tiếp thu và tập trung nghiên cứu, báo cáo các cấp có thẩm quyền về ngưỡng nợ thuế phù hợp đối với từng đối tượng nợ thuế trong việc áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh.
Cùng đó, doanh nghiệp và người nộp thuế cho rằng các quy định về đối tượng tạm hoãn xuất cảnh được đánh giá là chưa tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và người nộp thuế gặp khó khăn tài chính nhất thời. Đây chính là băn khoăn của không ít doanh nghiệp và người nộp thuế và mong muốn được Nhà nước xem xét sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn.
Theo quy định, có một số giải pháp đảm bảo thu thuế nhưng vẫn tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh như: nộp dần tiền thuế nợ, không tính tiền chậm nộp... Đặc biệt nếu người nộp thuế có khó khăn, cũng có những chính sách như gia hạn nộp thuế, miễn tiền chậm nộp…
Ngoài ra, Tổng cục Thuế sẽ xem xét các quy định về đối tượng bị tạm hoãn xuất cảnh (khoản 1 Điều 66, khoản 7 Điều 124 Luật Quản lý thuế và khoản 1 Điều 21 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP) và các quy định pháp luật liên quan để vừa đảm bảo tính công bằng, vừa đảm bảo hỗ trợ NNT khó khăn duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh.
Để thuận lợi cho việc triển khai biện pháp tạm hoãn xuất cảnh, Tổng cục Thuế cho biết đã chỉ đạo các đơn vị nghiệp vụ tăng cường công tác nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành để đảm bảo vừa nâng cao hiệu quả thu hồi tiền thuế nợ, vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp và người nộp thuế phát triển sản xuất kinh doanh ổn định cũng như các hoạt động đi lại giao thương được thuận lợi.
Trong thời gian tiếp theo, một mặt cơ quan thuế sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc công khai nợ thuế, nhắc nhở, cảnh báo doanh nghiệp và người nộp thuế đến hạn phải nộp, mặt khác, ngành thuế sẽ tiếp tục đẩy mạnh triển khai các kênh hỗ trợ giúp doanh nghiệp và người nộp thuế có đầy đủ thông tin về nghĩa vụ thuế phải nộp và tạo điều kiện nộp thuế điện tử dễ dàng, tạo thuận lợi cho người nộp thuế hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế vào ngân sách Nhà nước.