Nỗ lực ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng

Thời gian qua, chính sách tiền tệ của Việt Nam đã được điều hành một cách linh hoạt và hiệu quả, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng.
Một số nét chính về kinh tế - xã hội Việt Nam

Chính sách tiền tệ linh hoạt nhưng kiên định

Trước áp lực từ cả trong và ngoài nước, Ngân hàng Nhà nước đã chủ động triển khai các giải pháp chính sách tiền tệ linh hoạt để ứng phó.

Trong giai đoạn đầy thách thức từ 2022 đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng các biện pháp điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt nhằm đạt được các mục tiêu quan trọng: kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Cụ thể, từ cuối năm 2022, trước sức ép tăng lãi suất toàn cầu, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh lãi suất điều hành tăng thêm 0,8 - 2%/năm để đảm bảo ổn định tỷ giá và hệ thống tài chính. Tuy nhiên, đến năm 2023, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và người dân, lãi suất đã được giảm liên tục 4 lần với mức giảm 0,5 - 2,0%/năm. Điều này giúp giảm mặt bằng lãi suất cho vay, tăng khả năng tiếp cận vốn và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Trong năm 2024, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục duy trì lãi suất thấp, đồng thời chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí để giảm thêm lãi suất cho vay.

Nỗ lực ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng.

Trong giai đoạn 2022 - 2024, Ngân hàng Nhà nước cũng liên tục điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng để phù hợp với tình hình thực tế. Chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng được duy trì ở mức 14 - 15% mỗi năm, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và động lực tăng trưởng kinh tế. Ngân hàng Nhà nước cũng kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản và chứng khoán, đảm bảo hoạt động tín dụng an toàn, lành mạnh.

Năm 2024, Ngân hàng Nhà nước điều hành tín dụng phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế, đảm bảo hài hòa trong quan hệ với tỷ giá, lãi suất, huy động - cho vay, lợi ích của ngân hàng thương mại, doanh nghiệp, người vay vốn. Ngân hàng Nhà nước cũng đã điều chỉnh chính sách cấp hạn mức tín dụng cho các ngân hàng một cách thông thoáng, linh hoạt, tạo điều kiện cho các ngân hàng có năng lực phát triển.

Tính đến ngày 31/12/2024, tín dụng nền kinh tế tăng khoảng 15,08 % so với cuối năm 2023, tương đương với 2,1 triệu tỷ đồng đã được bơm vào nền kinh tế.

Nỗ lực ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng
Trụ sở Ngân hàng Nhà nước.

Theo ông Đào Minh Tú - Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước, bên cạnh những kết quả đạt được, việc điều hành chính sách tiền tệ vẫn đối mặt với không ít thách thức như: Lạm phát tiềm ẩn rủi ro tăng; biến động giá cả hàng hóa toàn cầu, căng thẳng địa chính trị và an ninh lương thực tiếp tục gây áp lực lên lạm phát; khó khăn trong giảm lãi suất khi nhu cầu vốn tín dụng tăng cao, cùng với áp lực tỷ giá từ thị trường quốc tế, khiến việc giảm lãi suất trở nên phức tạp hơn; sức hấp thụ vốn thấp khi nhiều doanh nghiệp bị ảnh hưởng sau đại dịch COVID-19, bão số 3 (Yagi) khiến cầu tín dụng yếu và năng lực tài chính suy giảm.

Chính vì vậy, trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục bám sát diễn biến thị trường, phối hợp đồng bộ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác; điều hành các công cụ chính sách tiền tệ một cách chủ động và linh hoạt, đặt mục tiêu hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát và ổn định thị trường tài chính.

Chia sẻ, đồng hành cùng người dân, doanh nghiệp

Năm 2024 cũng khẳng định nỗ lực của ngành Ngân hàng trong việc hỗ trợ người dân và doanh nghiệp vượt qua những khó khăn sau đại dịch COVID-19 và các đợt thiên tai liên tiếp. Những nỗ lực của Ngân hàng Nhà nước đã không chỉ góp phần duy trì ổn định kinh tế mà còn tạo động lực thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, phục hồi nền kinh tế toàn diện.

Nỗ lực ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng
Ông Đào Minh Tú - Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước.

Trong bối cảnh nhiều doanh nghiệp và người dân gặp khó khăn về tài chính, Ngân hàng Nhà nước đã triển khai loạt giải pháp đồng bộ nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng chính thức, giảm mặt bằng lãi suất và hạn chế tín dụng đen. Những chính sách này không chỉ đơn thuần mang tính hỗ trợ ngắn hạn, mà còn tạo cơ hội để các doanh nghiệp, hộ kinh doanh và cá nhân tái thiết và phát triển bền vững hơn.

Đặc biệt, các chương trình tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ đã được triển khai mạnh mẽ. Trong đó, chương trình 120.000 tỷ đồng cho vay ưu đãi đối với các dự án nhà ở xã hội và cải tạo chung cư cũ đã nhận được sự tham gia của 9 ngân hàng thương mại với tổng số tiền đăng ký 145.000 tỷ đồng. Chương trình này không chỉ hỗ trợ chủ đầu tư mà còn giúp người mua nhà tiếp cận lãi suất thấp hơn, tăng khả năng thanh khoản trên thị trường bất động sản.

Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước đã phát triển các chương trình cho vay đặc thù khác, như cho vay liên kết sản xuất lúa gạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long và chương trình tín dụng 20.000 tỷ đồng hỗ trợ công nhân khu công nghiệp thông qua hợp tác với các công ty tài chính lớn. Những chính sách này không chỉ giúp khôi phục sản xuất, kinh doanh mà còn đảm bảo đời sống ổn định cho người lao động.

Về miễn, giảm lãi suất và cơ cấu lại nợ, Phó Thống đốc Thường trực Đào Minh Tú cho biết, để khắc phục hậu quả từ dịch bệnh và thiên tai, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ linh hoạt. Cụ thể, chương trình hỗ trợ lãi suất theo Nghị định 31/2022/NĐ-CP đã giúp gần 2.300 khách hàng được tiếp cận nguồn vốn ưu đãi với tổng dư nợ hỗ trợ hơn 61.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cũng thừa nhận việc thực hiện chương trình gặp phải một số khó khăn, như mức độ hấp thụ chính sách còn hạn chế.

Ngoài ra, ngành Ngân hàng còn phản ứng nhanh về chính sách trong câu chuyện hỗ trợ người dân, doanh nghiệp sớm phục hồi sau cơn bão số 3 thông qua cơ cấu lại nợ, hỗ trợ theo mức độ thiệt hại của khách hàng. Thống kê cho thấy, có tới 124.000 khách hàng với dư nợ khoảng 192.000 tỷ đồng bị ảnh hưởng bởi bão. Trước tình hình này, Ngân hàng Nhà nước đã nhanh chóng ban hành các văn bản chỉ đạo và tổ chức các hội nghị trực tuyến với các tỉnh bị ảnh hưởng để tháo gỡ khó khăn.

Đáng chú ý, 35 ngân hàng đã công bố các gói tín dụng hỗ trợ với quy mô lên tới 405.000 tỷ đồng, trong đó 300.000 tỷ đồng dành riêng cho vay khôi phục sản xuất kinh doanh với lãi suất thấp hơn lãi suất thông thường. Đồng thời, gân hàng Nhà nước đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt việc giữ nguyên nhóm nợ và cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho các khách hàng bị ảnh hưởng bởi bão, giúp họ có thêm thời gian phục hồi sản xuất.

Về những thách thức và định hướng sắp tới, Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú cho biết, dù đã đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng việc triển khai các chương trình hỗ trợ vẫn đối mặt với nhiều thách thức. Nguồn cung nhà ở xã hội còn hạn chế, nhiều dự án gặp vướng mắc pháp lý. Tại các khu vực chịu ảnh hưởng bởi bão, địa hình phức tạp cũng khiến việc tiếp cận khách hàng và đánh giá thiệt hại trở nên khó khăn. Đặc biệt, nguy cơ nợ xấu gia tăng là một mối lo ngại lớn khi nhiều khách hàng gặp khó khăn kép từ COVID-19 và thiên tai.

Để khắc phục những vấn đề trên, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa quy trình vay vốn, đồng thời tăng cường kết nối ngân hàng – doanh nghiệp để tháo gỡ khó khăn kịp thời. Ngân hàng Nhà nước cũng kiến nghị Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định về giữ nguyên nhóm nợ và trích lập dự phòng rủi ro cho các khoản nợ bị ảnh hưởng bởi thiên tai, qua đó giảm áp lực tài chính cho khách hàng.

“Quan điểm của Ngân hàng Nhà nước là điều hành chính sách tiền tệ cởi mở để hỗ trợ được nhiều vốn hơn cho nền kinh tế, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng”, Phó Thống đốc Thường trực Đào Minh Tú cho biết.

Hậu Lộc
Phiên bản di động