Cải cách thể chế vẫn là gốc rễ để cởi trói cho kinh tế tư nhân
| Thủ tướng: Hỗ trợ kinh tế tư nhân phải cân, đo, đong, đếm được "Cả nước là một đoàn quân" trong phát triển kinh tế tư nhân |
Cải cách thể chế là biện pháp hiệu quả nhất, ít chi phí nhất
Chính bởi vậy mà, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định nhất quán, để đất nước vươn mình phát triển mạnh mẽ, chúng ta dứt khoát nói “không” với bất cứ hạn chế, bất cập nào trong thể chế, pháp luật; không thỏa hiệp với bất kỳ yếu kém nào trong thiết kế chính sách, soạn thảo pháp luật, hay tổ chức thực thi.
Cũng do đó mà hàng loạt Nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội liên tục được ra đời trong thời gian gần đây và trong đó có Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
Ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội nhấn mạnh, để phát triển kinh tế tư nhân rất cần những giải pháp toàn diện, liên ngành, liên lĩnh vực, song giải pháp về cải cách thể chế vẫn là quan trọng nhất. Do đó, Nghị quyết số 68-NQ/TW được ban hành. Nếu như cải cách thể chế tốt, đáp ứng đúng nhu cầu nguyện vọng của người dân và doanh nghiệp thì người ta cho rằng đây là một biện pháp cải cách rẻ nhất nhưng lại mang lại hiệu quả lớn nhất.
Theo ông Hiếu, Nhà nước làm ra thể chế thì Nhà nước tiến hành cải cách. Xét về mặt lý thuyết là dễ nhất. Tất nhiên xét về mặt thực tế thì có những lực cản. Và trong thực tế cải cách thể chế của nước ta thì đã chứng minh là không phải có những hỗ trợ mạnh mẽ về nguồn lực thì mới tạo ra sự đột phá mà chỉ khi cải cách mạnh mẽ về thể chế mới tạo ra được đột phá.
![]() |
| Ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội. |
Ông Hiếu nêu 2 dấu mốc ban đầu là năm 1988 và giai đoạn 1990 thì đó là cải cách thể chế. Đặc biệt là năm 1999 và năm 2000, khi chúng ta ra đời Luật Doanh nghiệp, đơn giản hóa thủ tục thành lập doanh nghiệp, gia nhập thị trường, chuyển từ cấp phép sang đăng ký, rút ngắn hàng trăm ngày trong việc thành lập doanh nghiệp, bãi bỏ khoảng 150-160 giấy phép kinh doanh.
"Tôi còn nhớ khi chúng tôi tổng kết thi hành Luật Doanh nghiệp năm 2000 thì chỉ 5 năm thi hành luật, tức là từ năm 2000 đến năm 2005, số lượng doanh nghiệp thành lập mới trong giai đoạn 5 năm đấy so với trước đấy 10 năm thì tăng nhiều lần.
Từ năm 1990-2005 chia ra làm hai giai đoạn thì số lượng doanh nghiệp thành lập trong giai đoạn 2000 đến 2005 chiếm 80% tổng số doanh nghiệp được thành lập trong 15 năm. Điều đó góp phần rất lớn trong việc tạo lập được lực lượng doanh nghiệp như ngày hôm nay, mặc dù chưa đông, đủ như kỳ vọng và mong muốn của chúng ta", ông Hiếu nói.
Ông Phan Đức Hiếu nhấn mạnh, cải cách thể chế sẽ là biện pháp hiệu quả nhất, công bằng nhất, tốn ít chi phí nhất mà có thể làm được, gọi là khả thi nhất, đứng từ góc độ của Chính phủ.
Nhìn vào Nghị quyết 68-NQ/TW, số lượng giải pháp về cải cách thể chế là chủ đạo. Như Tổng Bí thư nói, thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn và nếu như chúng ta tập trung cải cách mạnh mẽ về thể chế thì tác động nó sẽ rất lớn. "Chúng tôi hiểu là thể chế phải đi trước, thể chế phải đi trước thì mới có kết quả", ông nói.
Ông Phan Đức Hiếu cũng nói thêm 3 điểm về tinh thần của các nhóm giải pháp về cải cách thể chế. Trong đó nổi lên mấy từ không phải là "đơn giản", cũng không phải là "sửa đổi" mà ở đây là thể hiện rất mạnh là "bãi bỏ", "cắt giảm", có nghĩa là chúng ta phải bỏ, phải cắt đi, tức là một quy định không tốt thì không phải là chúng ta sửa để cho nó tốt hơn một chút mà quy định đấy không tốt thì bãi bỏ. Tinh thần này rất khác với trước đây và tương đồng với kinh nghiệm cải cách thể chế ở các nước.
![]() |
| Nghị quyết số 68-NQ/TW đưa ra những giải pháp mang tính chất "xé rào" để kinh tế tư nhân phát triển. |
Theo ông Hiếu, chúng ta phải hiểu là không phải chỉ thủ tục hành chính, nếu như luật nào, nghị định nào không còn cần thiết thì phải bãi bỏ cả đạo luật, cả nghị định. Tinh giảm luật lệ - đấy là cái tinh thần thứ nhất. Tinh thần thứ hai, là câu chuyện thực thi pháp luật. Việc xử lý trách nhiệm của doanh nghiệp dùng những biện pháp phù hợp với tính chất của vụ việc kinh tế. Xử lý vụ việc mang tính chất kinh tế, hành chính thì phải tách bạch với hình sự.
Khi xử lý phải tách bạch giữa tài sản, trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của cá nhân người quản lý doanh nghiệp và doanh nghiệp. Có những vụ việc thì khi xử lý một cá nhân vô hình chung chúng ta đánh đồng với cả doanh nghiệp và dẫn đến việc không phân biệt được đâu là tài sản cá nhân, đâu là tài sản của doanh nghiệp, nên dẫn đến xử lý một cá nhân làm ảnh hưởng đến cả hoạt động của doanh nghiệp. Mà doanh nghiệp có lỗi gì đâu, thậm chí nhiều khi doanh nghiệp là do một cá nhân lợi dụng hình ảnh của doanh nghiệp.
Về tinh thần thứ ba trong cải cách thể chế, theo ông Hiếu, nếu bây giờ bỏ quy định, luật lệ, nhiều người sẽ hỏi thế thì quản lý Nhà nước bằng gì, ai đó không chịu cải cách thì lại viện dẫn những điều này. Ở đây chúng ta phải hiểu rõ Nghị quyết 68-NQ/TW thay đổi tư duy quản lý Nhà nước, sử dụng những công cụ phù hợp cần thiết để nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước.
Ông Hiếu cho rằng, công cụ quản lý Nhà nước ở đây đó là không phải ngồi ở bàn giấy cấp ra một giấy phép, chứng nhận một sản phẩm đủ điều kiện an toàn thực phẩm. Vấn đề là phải giám sát sản phẩm được bán ra thị trường. Vậy thay vì chúng ta ngồi bàn giấy cấp giấy phép thì tại sao không dành thời gian đi giám sát và kiểm soát thực sự chất lượng của sản phẩm. Nếu như chúng ta làm như vậy thì một số vụ việc vừa qua cũng có thể tránh được.
Cũng theo ông Hiếu, cơ chế quan trọng nhất đối với thị trường là duy trì trật tự cạnh tranh, xử lý nghiêm những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hành vi lạm dụng, chống độc quyền chứ không phải là ban hành quy định để bắt doanh nghiệp phải làm thế này, thế kia. Tư duy quản lý nhà nước có thay đổi. Chúng ta phải hiểu đừng có đưa ra lý do là cứ bãi bỏ quy định là mất công cụ quản lý.
"Chúng ta phải hiểu tinh thần của Nghị quyết là thay đổi toàn diện. Trước đây chúng ta gọi là quản lý bằng mọi giá, tức là đưa ra một cái công cụ quản lý, thậm chí rất tốn kém nhiều chi phí cho cả xã hội, cho người dân thì bây giờ phải quản lý bằng một cách hiệu quả nhất, không phải quản lý bằng mọi giá", ông Hiếu nói thêm.
Theo ông Phan Đức Hiếu, sự ra đời của Nghị quyết số 68-NQ/TW là rất cần thiết và có ý nghĩa trong bối cảnh hiện nay. Những thông điệp trong nghị quyết rất rõ ràng và mạnh mẽ, đã đi thẳng vào những vấn đề của khu vực kinh tế tư nhân, giải quyết những trở ngại tồn tại lâu nay. Chúng ta thử nhìn lại lịch sử để thấy được vị trí quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế tư nhân và tại sao nó lại có một vị trí như vậy.
Thể chế chính là luật chơi của nền kinh tế
Theo TS. Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, thể chế quy định rõ ai được làm gì, cách thức làm ra sao, và giới hạn ở đâu. Khi luật chơi minh bạch, ổn định và công bằng, mọi doanh nghiệp – từ nhỏ đến lớn – đều có cơ hội phát huy năng lực, cạnh tranh sòng phẳng và đóng góp cho sự thịnh vượng chung của đất nước.
Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị đã khẳng định: "Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Nhưng động lực này chỉ thực sự phát huy khi thể chế đủ thông thoáng, minh bạch và ổn định để bảo vệ và khuyến khích tinh thần kinh doanh.
Tổng Bí thư Tô Lâm và Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nhiều lần nhấn mạnh thể chế là đột phá của đột phá, nhưng hiện là điểm nghẽn của điểm nghẽn; và yêu cầu năm 2025 phải cơ bản hoàn thành việc tháo gỡ những "điểm nghẽn" do pháp luật quy định.
![]() |
| TS. Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội. |
TS. Nguyễn Sĩ Dũng cho rằng, thể chế là trụ cột quan trọng nhất để phát triển kinh tế tư nhân. Ông cho rằng, trước hết, thể chế là nền móng của "ngôi nhà kinh tế".
Một nền móng vững sẽ giúp các trụ cột khác – vốn, công nghệ, nhân lực, hạ tầng – phát huy hết sức mạnh. Ngược lại, nếu nền móng yếu, mọi nỗ lực đầu tư hay đổi mới đều dễ sụp đổ. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, những quốc gia cải cách thể chế mạnh mẽ như New Zealand hay Đan Mạch luôn nằm trong nhóm đầu về năng lực cạnh tranh toàn cầu.
Thứ hai, cải cách thể chế giúp giải quyết tận gốc các nút thắt. Phần lớn khó khăn của doanh nghiệp tư nhân – từ thủ tục rườm rà, giấy phép con, tiếp cận đất đai, đến chi phí không chính thức – đều bắt nguồn từ bất cập thể chế.
Thứ ba, thể chế tốt tạo ra hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ. Bình đẳng cạnh tranh chỉ có khi luật chơi thật sự công bằng. Doanh nghiệp dễ tiếp cận vốn hơn khi khung pháp lý cho thị trường tài chính được thông suốt.
Theo TS. Nguyễn Sĩ Dũng, cải cách thể chế chỉ thành công khi hội đủ những điều kiện then chốt, trong đó quyết tâm chính trị là yếu tố khởi đầu. Ở mọi quốc gia cải cách thành công, từ Singapore, New Zealand đến Estonia, vai trò của người đứng đầu luôn mang tính quyết định. Cam kết mạnh mẽ ở cấp cao nhất giúp duy trì lộ trình cải cách bất chấp thay đổi chính trị hay sức ép từ các nhóm lợi ích.
Ông Dũng lấy ví dụ Singapore những năm 1960-1970 là một minh chứng điển hình. Thủ tướng Lý Quang Diệu đã kiên quyết thay đổi hàng loạt quy định, tạo môi trường đầu tư thông thoáng, đưa thu nhập bình quân từ khoảng 500 USD lên hơn 4.000 USD chỉ sau hai thập kỷ. Ở Việt Nam, tư duy mới cần chuyển từ "quản lý" sang "kiến tạo" – Nhà nước đóng vai trò mở đường, chứ không chỉ là người kiểm soát.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng cũng cho rằng, cải cách phải tập trung vào những điểm nghẽn lớn nhất, thay vì dàn trải. Những lĩnh vực như thủ tục đầu tư, tiếp cận đất đai, điều kiện kinh doanh, cấp phép xây dựng, đấu thầu – mua sắm công đang chiếm tới 60-70% tổng thời gian xử lý hành chính của doanh nghiệp (theo PCI 2023). Việc gỡ đúng điểm nghẽn có thể tạo hiệu ứng tức thì. Thực tế, khi thủ tục đăng ký doanh nghiệp được rút từ 34 ngày xuống còn 6-7 ngày vào năm 2015, số doanh nghiệp thành lập mới đã tăng hơn 25% chỉ sau một năm.
Bên cạnh đó, luật pháp phải được thiết kế minh bạch, dễ hiểu, dễ thực thi. Khung pháp lý "ít nhưng rõ" sẽ tránh được tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, giúp doanh nghiệp yên tâm lập kế hoạch đầu tư dài hạn. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các quốc gia có hệ thống pháp luật ổn định thường thu hút FDI cao hơn 30% so với mức trung bình (WEF). New Zealand là ví dụ điển hình khi duy trì hệ thống luật gọn nhẹ, áp dụng thống nhất trên toàn quốc và luôn tham vấn cộng đồng doanh nghiệp ngay từ khâu soạn thảo.
Tuy nhiên, luật tốt đến đâu cũng vô nghĩa nếu thực thi kém. Báo cáo của UNDP (2021) chỉ ra rằng, tại nhiều quốc gia, 50-60% các cải cách thủ tục bị vô hiệu hóa ở khâu thực thi vì sự trì hoãn hoặc áp dụng tùy tiện của một số công chức. Bài học từ Estonia rất đáng tham khảo: quốc gia này không chỉ số hóa toàn bộ thủ tục mà còn công khai dữ liệu về cấp phép, đấu thầu, giao đất… để người dân và báo chí giám sát, nhờ đó giảm đáng kể tiêu cực và lợi ích nhóm.
"Cải cách thể chế thành công là kết quả của quyết tâm chính trị mạnh mẽ, lựa chọn đúng điểm đột phá, thiết kế luật minh bạch, thực thi nghiêm minh và nhận được sự đồng thuận rộng rãi của xã hội. Đây là con đường đã được thực tiễn thế giới chứng minh – và cũng là con đường Việt Nam cần kiên định nếu muốn biến thể chế thành trụ cột vững chắc cho phát triển kinh tế tư nhân", TS. Nguyễn Sĩ Dũng nhận định.





