Tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng
Từ một công chức tới nhà hoạt động cách mạng chuyên nghiệp
Đồng chí Phan Đăng Lưu sinh ngày 5/5/1902 tại thôn Đông, xã Tràng Thành (nay là xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An). Sinh ra trong cảnh nước mất nhà tan, lại được giáo dục về truyền thống tốt đẹp của gia đình và quê hương nên từ rất sớm, đồng chí đã sớm ấp ủ hoài bão cứu dân, cứu nước.
Khi làm việc ở Sở Canh nông Nghệ An, đồng chí Phan Đăng Lưu đã nhanh chóng bắt liên lạc với các thành viên trong Hội Phục Việt và tích cực tham gia các hoạt động yêu nước; Phổ biến sách báo tiến bộ, bàn luận thời cuộc với những người yêu nước và ký tên vào bản yêu sách đòi thực dân Pháp trả lại tự do cho nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu.
Nắm chắc những hoạt động yêu nước của đồng chí Phan Đăng Lưu, chính quyền thực dân Pháp tìm mọi cách luân chuyển đồng chí làm nhiều công việc khác nhau và cuối cùng Khâm sứ Trung Kỳ đã ra quyết định thải hồi vì những hoạt động yêu nước của Phan Đăng Lưu. Thế nhưng, kẻ thù không thể ngờ chính những thủ đoạn thâm độc đó lại tạo cơ hội để đồng chí Phan Đăng Lưu trở về quê hương hoạt động cách mạng.
Về quê, đồng chí Phan Đăng Lưu tiếp tục hoạt động, xây dựng nhiều tổ chức mới của Việt Nam cách mạng Đảng và Tân Việt. Tháng 2/1928, đồng chí Phan Đăng Lưu được kết nạp vào Hội Phục Việt (lúc này hội đổi tên là Hưng Nam, sau đổi thành Tân Việt Cách mạng Đảng). Từ một công chức, đồng chí đã trở thành nhà hoạt động cách mạng chuyên nghiệp trong tổ chức Tân Việt, được bầu làm Ủy viên Thường vụ của tổ chức này (tháng 7/1928).
Cuối tháng 9/1928, đồng chí Phan Đăng Lưu được Tổng bộ Tân Việt cử sang Quảng Châu, Trung Quốc tìm cách hợp nhất Tân Việt với Thanh Niên nhưng vì lý do khách quan, đồng chí không thực hiện được nhiệm vụ do Tổng bộ Tân Việt giao phó nhưng được tiếp thêm ngọn lửa cách mạng từ việc tìm hiểu những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên; Từ đó, mở rộng tầm nhìn, củng cố, nung nấu thêm quyết tâm thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản mà Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra.
Đồng chí Phan Đăng Lưu (hàng sau, thứ hai từ trái sang) trong phong trào vận động dân chủ 1936 – 1939 tại Huế. (Ảnh tư liệu) |
Tháng 9/1929, Tổng bộ Tân Việt lại cử Phan Đăng Lưu sang Quảng Châu lần thứ hai, thực hiện nhiệm vụ đặt một cơ quan liên lạc của Đảng ở nước ngoài. Khi đang ở Hải Phòng để chuẩn bị sang Trung Quốc, Phan Đăng Lưu bị mật thám bắt đưa về giam ở nhà lao Vinh và bị Tòa Nam triều Nghệ An kết án 7 năm tù giam, đày lên nhà tù Buôn Ma Thuột - một trong những nhà tù, nhà đày khắc nghiệt nhất của thực dân Pháp ở Đông Dương.
Cùng với nhiều tù chính trị, đồng chí Phan Đăng Lưu bị giam cầm, tra tấn dã man nhưng vẫn kiên trì, bền bỉ đấu tranh. Cũng chính tại đây, đồng chí được chi bộ Đảng kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam và tham gia Ban lãnh đạo nhà tù. Đồng chí triệt để lợi dụng mọi cơ hội để tuyên truyền trong bạn tù chính trị; Làm tờ báo bí mật "Doãn Đê tuần báo" trong nhà tù (tuần báo của người Kinh và người Ê Đê), đã tuyên truyền, giác ngộ sự đoàn kết giữa người Kinh, binh lính và đồng bào Ê Đê. Đồng chí tham gia lãnh đạo các cuộc đấu tranh trong nhà tù đòi quyền lợi cho tù chính trị; Đồng thời viết nhiều bài gửi ra bên ngoài tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở nhà tù Buôn Ma Thuột.
Giữa năm 1936, phong trào đấu tranh đòi quyền tự do, dân chủ và thả tù chính trị dấy lên ở Pháp và Đông Dương. Thực dân Pháp ở Đông Dương buộc phải thả một số tù chính trị, trong đó có Phan Đăng Lưu. Ra tù, đồng chí về hoạt động tại Huế trong sự kiểm soát của mật thám Pháp. Cuối tháng 11/1940, đồng chí bị thực dân Pháp bắt lần thứ hai và giải về Khám lớn Sài Gòn, dùng đủ mọi thủ đoạn để mua chuộc và tra tấn, nhưng đồng chí vẫn giữ vững khí tiết của người cộng sản… Trong lao tù, đồng chí Phan Đăng Lưu vẫn tìm cách truyền ngọn lửa cách mạng của người cộng sản tới anh em cùng cảnh ngộ. Bất chấp chế độ hà khắc của nhà tù đế quốc và sự kiểm soát gắt gao của bọn lính gác, đồng chí Phan Đăng Lưu đã cùng anh em trong tù tổ chức kiểm điểm tập thể, rút ra những bài học kinh nghiệm từ cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ.
Sáng suốt chỉ đạo thực tiễn cách mạng
Tháng 3/1938, Xứ ủy Trung Kỳ được thành lập lại, đồng chí Phan Đăng Lưu được bầu vào Xứ ủy Trung Kỳ và Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phụ trách hoạt động công khai ở Huế, đóng góp tích cực vào phong trào báo chí và cuộc vận động Đông Dương đại hội. Đồng chí đã vận dụng sáng tạo chủ trương của Đảng về không tẩy chay tuyển cử mà tham gia tuyển cử. Trên cơ sở đó, đồng chí Phan Đăng Lưu đã xây dựng bản chương trình hành động cụ thể, thiết thực; Thảo luận thống nhất việc chọn người ra tranh cử có cả đảng viên và cảm tình của Đảng; Làm thất bại âm mưu, hành động của chính quyền thực dân và tay sai.
Cuộc đấu tranh vào Viện Dân biểu do Phan Đăng Lưu làm Tổng tư lệnh đã thắng lợi rực rỡ. Tất cả 18 ứng cử viên do Đảng đưa ra tranh cử đều trúng cử ngay từ vòng đầu và đều nắm các chức vụ chủ chốt trong viện.
Thế hệ trẻ lắng nghe giới thiệu về cuộc đời, hoạt động của nhà cách mạng tiền bối Phan Đăng Lưu |
Cuối năm 1939, Chiến tranh Thế giới lần thứ hai bùng nổ. Đồng chí Phan Đăng Lưu được Trung ương triệu tập vào Nam Kỳ hoạt động và đã góp phần tích cực vào việc vạch đường lối, sách lược, chuyển hướng cách mạng của Đảng. Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ sáu, đồng chí được Trung ương phân công phụ trách phong trào các tỉnh Nam Kỳ.
Với tư cách là đại diện của Trung ương ở Nam Kỳ, đồng chí Phan Đăng Lưu dự Hội nghị Xứ ủy Nam Kỳ bàn về kế hoạch khởi nghĩa của xứ ủy. Bằng tầm nhìn toàn cuộc về thời cơ khởi nghĩa, đồng chí đã chỉ đạo tạm hoãn cuộc khởi nghĩa chờ “xin chỉ thị của Trung ương”. Tạm trì hoãn cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, đồng chí bí mật bắt tay ngay vào chuẩn bị cho Hội nghị tái lập Ban chấp hành Trung ương Đảng. Sau 3 tháng chuẩn bị, vào giữa tháng 10/1940, đồng chí bí mật rời Nam Kỳ ra gặp Xứ ủy Trung Kỳ và Bắc Kỳ, họp và cùng với Xứ ủy Bắc Kỳ thống nhất tổ chức Hội nghị tái lập Ban chấp hành Trung ương (được gọi là Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ bảy).
Từ ngày 6 - 9/11/1940, tại làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), Hội nghị Trung ương lần thứ bảy của Đảng đã được nhóm họp do đồng chí Phan Đăng Lưu chủ trì. Hội nghị đã cử Ban chấp hành Trung ương lâm thời. Đồng chí Trường Chinh được cử làm Quyền Tổng Bí thư của Đảng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương tiếp tục thực hiện đường lối do Hội nghị Trung ương lần thứ sáu của Đảng đề ra, nhằm tích cực chuẩn bị mọi mặt, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành lại non sông đất nước khi thời cơ xuất hiện do diễn biến của chiến tranh thế giới và tình hình trong nước tạo ra; Trong đó có quyết định hoãn cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ và giao cho đồng chí Phan Đăng Lưu trở lại Nam Kỳ truyền đạt quyết định đó cho Xứ ủy Trung Kỳ và Nam Kỳ.
Về đến Sài Gòn, chưa kịp truyền đạt chỉ thị của Trung ương thì đồng chí Phan Đăng Lưu bị mật thám Pháp bắt. Trong đêm đó, đồng chí Tạ Uyên và nhiều người trong xứ ủy, cấp ủy các cấp cũng bị địch bắt. Cơ quan đầu não lãnh đạo khởi nghĩa không còn, tuy nhiên, lệnh khởi nghĩa đã truyền đến các địa phương trong toàn xứ, đêm 22/11/1940, Nhân dân đã nhất tề đứng lên khởi nghĩa ở 19/22 tỉnh, thành phố từ Biên Hòa đến Cà Mau.
Con người, nhân cách của đồng chí Phan Đăng Lưu là hiện thân của đạo đức cách mạng cao cả của người cộng sản chân chính. Đó là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng; thực hiện chí công vô tư, đặt lợi ích của Đảng, của Nhân dân, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, trước hết; Hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân; Gương mẫu trong mọi công việc... Như cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói - đó “là người cộng sản lỗi lạc, mẫu mực. Cần làm cho mọi người dân, nhất là thế hệ trẻ hiểu biết rõ hơn về một con người, về một trí tuệ, một nhân cách đã có những đóng góp lớn cho cách mạng Việt Nam để phấn đấu tu dưỡng rèn luyện theo gương Bác Hồ và những chiến sĩ cách mạng tiền bối như Phan Đăng Lưu"...