Nghị quyết 57 – Đòn bẩy cho phát triển công nghiệp văn hóa
Đại học Hà Nội hưởng ứng Nghị quyết 57 Tích cực “đón đầu” nguồn nhân lực chất lượng cao |
Cơ hội “có một không hai”
Đại hội XII của Đảng (tháng 1/2016 tại Hà Nội) đã đề ra nhiệm vụ phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường dịch vụ và sản phẩm văn hóa, coi phát triển công nghiệp văn hóa là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng văn hóa, con người Việt Nam thời kỳ mới, cũng như trong chính sách gia tăng “sức mạnh mềm” của quốc gia.
Nhằm cụ thể hóa chủ trương của Đảng, ngày 8/9/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1755/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”. Theo đó, sẽ tăng dần tỷ trọng phim truyện Việt Nam chiếu tại các rạp; xây dựng và phổ biến các tác phẩm điện ảnh có giá trị nghệ thuật, có tính cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế; đạt mục tiêu đảm bảo doanh thu từ phim Việt Nam đạt khoảng 50 triệu USD vào năm 2020 và 125 triệu USD vào năm 2030.
Trong Quyết định số 1909/QĐ-TTg ngày 21/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030 nêu rõ: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa phải được đặt ngang hàng và phát triển hài hòa với kinh tế, chính trị, xã hội; bảo đảm yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế; thích ứng với xu thế phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các công nghệ mới, hiện đại và biến đổi kinh tế - xã hội, con người do tác động của thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng...
![]() |
Các di tích của Hà Nội chuyển mình mạnh mẽ nhờ chuyển đổi số |
Ngày 29/8/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 30/CT-TTg khẳng định: “Để thúc đẩy phát triển công nghiệp văn hóa, cần chú trọng, đẩy nhanh quá trình ứng dụng, khai thác những thành tựu khoa học công nghệ, kỹ thuật cùng kỹ năng kinh doanh, năng lực sáng tạo, phát huy nguồn vốn văn hóa và quyền sở hữu trí tuệ để tạo ra các sản phẩm, dịch vụ mang giá trị văn hóa và kinh tế, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, hưởng thụ văn hóa của người dân, góp phần phát triển bền vững đất nước; Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa phải bảo đảm khai thác tối đa, hiệu quả tiềm năng, lợi thế; đa dạng, liên kết đa ngành, lĩnh vực; có tư duy sắc bén, hành động quyết liệt, hiệu quả, biết lựa chọn tinh hoa và tạo đột phá phát triển; đáp ứng được các yếu tố: Sáng tạo, bản sắc, độc đáo, chuyên nghiệp, lành mạnh, cạnh tranh, bền vững trên nền tảng dân tộc, khoa học, đại chúng…”.
Ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Theo PGS. TS. Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Xã hội của Quốc hội, trong kỷ nguyên số, phát triển công nghiệp văn hóa không còn là câu chuyện của nghệ thuật và truyền thống, mà là sự kết hợp hài hòa giữa sáng tạo, khoa học, công nghệ và đổi mới. Vì thế, Nghị quyết 57 không chỉ là kim chỉ nam cho sự phát triển của nền kinh tế tri thức, mà còn mở ra cơ hội to lớn cho các ngành công nghiệp văn hóa – một lĩnh vực đầy tiềm năng trong chiến lược phát triển bền vững của đất nước.
Chuyển đổi tư duy, trải nghiệm văn hóa
Tại một hội thảo mới đây, Thứ trưởng Bộ VHTTDL Phan Tâm cho biết, trong bối cảnh chuyển đổi số đã và đang diễn ra mạnh mẽ tại Việt Nam và trên toàn thế giới, lĩnh vực văn hóa không thể đứng ngoài cuộc. Tuy nhiên, khác với chuyển đổi số trong các lĩnh vực kinh tế – kỹ thuật, chuyển đổi số trong văn hóa mang những đặc điểm rất riêng, bởi văn hóa gắn liền với yếu tố phi vật chất, chiều sâu lịch sử, bản sắc dân tộc và ký ức cộng đồng.
GS.TS Từ Thị Loan, nguyên Quyền Viện trưởng Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam cho biết, chuyển đổi số ngành văn hóa không chỉ là số hóa các tài liệu, hiện vật (chuyển từ vật lý sang bản số), mà còn là chuyển đổi tư duy, phương thức hoạt động, cách tiếp cận và mô hình tổ chức- quản trị nhờ ứng dụng công nghệ số, dữ liệu lớn (big data), trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), Cloud Computing, Blockchain...
Theo GS.TS Từ Thị Loan, chuyển đổi số ngành văn hóa có bản chất và đặc thù khác hẳn so với các ngành kinh tế- kỹ thuật. Mục tiêu của chuyển đổi số văn hóa không chỉ hướng tới hiệu quả kinh tế hay tự động hóa, mà chú trọng bảo tồn, phát huy giá trị bản sắc, chiều sâu lịch sử, văn hóa, truyền thống, các hình thức biểu đạt sáng tạo. Như vậy, chuyển đổi số không phải là mục tiêu tự thân, mà là phương tiện, công cụ giúp nâng cao hiệu quả của toàn bộ quá trình: Gìn giữ, lan tỏa, đổi mới và phát triển văn hóa.
![]() |
Khu Di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám áp dụng công nghệ 3D Mapping, phối hợp cùng kỹ thuật dàn dựng ánh sáng và âm thanh chuyên nghiệp, mang lại cho khách tham quan nhiều trải nghiệm mới lạ, khó quên. |
Từ đó dẫn tới cách tiếp cận của chuyển đổi số trong văn hóa không đơn thuần là "số hóa" hay "đưa lên mạng", mà là chuyển đổi tư duy bảo tồn, tiếp nhận, tổ chức, phát triển hình thức giao tiếp và biểu đạt mới trên không gian số; đảm bảo bản sắc và giá trị truyền thống không bị mất đi/biến dạng khi chuyển lên môi trường số.
Còn GS.TSKH Hồ Tú Bảo, Thành viên Hội đồng tư vấn quốc gia về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số thì cho rằng, các nguyên tắc cơ bản để làm chuyển đổi số gồm ba cặp: Tổng thể và toàn diện; Đồng bộ và đột phá; Chính chủ và lãnh đạo. Đồng thời, nêu các vấn đề về số hóa di sản, tài nguyên văn hóa; Sáng tạo, sản xuất, phổ biến văn hóa và nghệ thuật; Đổi mới phương thức hưởng thụ, tiêu dùng, trải nghiệm văn hóa của công chúng; Đổi mới phương thức hưởng thụ, tiêu dùng, trải nghiệm văn hóa của công chúng; Đổi mới phương thức hưởng thụ, tiêu dùng, trải nghiệm văn hóa của công chúng.
Điều này được chứng minh qua câu chuyện chuyển đổ số trong lĩnh vực di sản ở Trung tâm hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám cho biết.
Bà Nguyễn Liên Hương, Phó Giám đốc Trung tâm hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu cho hay, kể từ sau đại dịch, Covid-19, Văn Miếu - Quốc Tử Giám đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số với một số hoạt động nổi bật như: Số hóa tài liệu, hiện vật và hệ thống tham quan (áp dụng vé điện tử; sử dụng mã QR cho các tài liệu, hiện vật, công trình kiến trúc, sử dụng công nghệ để tăng tương tác của du khách với di tích); Xây dựng cơ sở dữ liệu số 3D (triển khai dự án số hóa toàn diện bằng giải pháp công nghệ số hóa 2D, 3D, AR/VR 3D, VR360, Holosys, trình chiếu Hologram, 3D mapping… kết hợp với nghiên cứu văn hóa- lịch sử nhằm tạo ra các sản phẩm số chất lượng cao phục vụ nghiên cứu, giáo dục và quảng bá di tích, đặc biệt phù hợp với nhu cầu trải nghiệm hiện đại của giới trẻ).
Bên cạnh đó, ứng dụng công nghệ bóc tách, số hóa các hoa văn cổ trên hiện vật, trên các hạng mục kiến trúc để thiết kế sản phẩm lưu niệm đặc trưng, mang dấu ấn riêng của Văn Miếu- Quốc Tử Giám, đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách, đặc biệt là khách quốc tế và giới trẻ.
Ngoài ra, Trung tâm cũng đẩy mạnh áp dụng trí tuệ nhân tạo (AI), xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu chuẩn hóa, đồng bộ, ứng dụng các phần mềm quản lý công việc tự động... Nhờ đó, mỗi năm, Trung tâm đón hàng triệu lượt du khách tới tham quan.
Từ thực tiễn triển khai phát huy nguồn lực di sản gắn với chuyển đổi số tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám không chỉ là “câu chuyện riêng” của một di tích, mà là chiến lược lớn để đưa văn hóa truyền thống vào dòng chảy hiện đại. Chuyển đổi số không làm phai nhòa giá trị di sản, mà chính là phương tiện hữu hiệu để bảo tồn và phát huy di sản một cách bền vững trong thời đại số.
Bà Liên Hương cho rằng, chuyển đổi số không thể thực hiện hiệu quả nếu chỉ dựa vào ngân sách nhà nước. “Cần huy động sự tham gia của doanh nghiệp, tổ chức xã hội, cộng đồng, cá nhân và các chuyên gia trong và ngoài nước-cả về tài chính, công nghệ, tri thức lẫn kinh nghiệm. Đặc biệt, khuyến khích sự tham gia của lực lượng trẻ, phải tạo môi trường thu hút người trẻ-những người hiểu và yêu di sản, lại thành thạo công nghệ, có khả năng sáng tạo- để đóng góp vào công cuộc bảo tồn, phát huy giá trị di tích bằng các cách làm mới, sáng tạo hơn” – bà nói.