Khó khăn lớn nhất doanh nghiệp đang gặp phải là gì?
Số doanh nghiệp ngừng kinh doanh, phá sản vẫn tăng Mỗi tháng bình quân Hà Nội có 2.600 doanh nghiệp ra đời |
Theo số liệu của Cục Thống kê, trong quý II/2025, có 51,2% doanh nghiệp gặp khó khăn do nhu cầu thị trường trong nước vẫn ở mức thấp; 50,1% doanh nghiệp gặp khó khăn do sự cạnh tranh của các hàng hóa trong nước ngày càng cao và 30,8% doanh nghiệp gặp khó khăn do nhu cầu hàng hóa tại các thị trường quốc tế vẫn chưa phục hồi như kỳ vọng.
Một số ngành có tỷ lệ doanh nghiệp nhận định hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý II/2025 khó khăn hơn quý I/2025.
Cụ thể, ngành sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu có tỷ lệ doanh nghiệp nhận định các yếu tố nhu cầu thị trường trong nước thấp, tính cạnh tranh của hàng trong nước cao và tính cạnh tranh của hàng nhập khẩu cao ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh quý II/2025 so với quý I/2025 lần lượt là 56,9%; 68,6% và 33,3%.
![]() |
Ngành sản xuất đồ uống có tỷ lệ doanh nghiệp nhận định các yếu tố nhu cầu thị trường trong nước thấp, tính cạnh tranh của hàng trong nước cao và chính sách pháp luật của Nhà nước ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh quý II/2025 so với quý I/2025 lần lượt là 70,1%; 71,5% và 25,0%.
Ngành dệt có có tỷ lệ doanh nghiệp nhận định các yếu tố nhu cầu thị trường trong nước thấp, tính cạnh tranh của hàng trong nước cao, nhu cầu thị trường quốc tế thấp, không tuyển dụng được lao động theo yêu cầu và tính cạnh tranh của hàng nhập khẩu cao ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh quý II/2025 so với quý I/2025 lần lượt là 64,6%; 51,1%, 47,5%; 25,2% và 32,9%.
Thời gian tới, để giúp doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh hiệu quả hơn nữa thì có 38,7% doanh nghiệp kiến nghị các ngân hàng tiếp tục giảm lãi suất cho vay. Mặc dù đề xuất giảm lãi suất cho vay vẫn được nhiều doanh nghiệp kiến nghị nhất, nhưng tỷ lệ này ở quý II/2025 đã giảm 1,7 điểm phần trăm so với quý I/2025.
Ngành chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế) có tỷ lệ doanh nghiệp kiến nghị giảm lãi suất cho vay nhiều nhất với 48,6%, tập trung chủ yếu ở hai thành phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh với tỷ lệ doanh nghiệp kiến nghị lần lượt là 68,2% và 88,9%. Tiếp theo là ngành sản xuất kim loại với 47,4% doanh nghiệp kiến nghị, tỷ lệ doanh nghiệp kiến nghị ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh lần lượt là 75,0% và 60,0%.
Có 31,8% doanh nghiệp kiến nghị Nhà nước có các biện pháp bình ổn giá nguyên vật liệu, năng lượng, tăng 3,5 điểm phần trăm so với quý I/2025.
Về năng lượng, các doanh nghiệp cho rằng việc giá điện tăng liên tục từ tháng 10/2024 đến nay đã ảnh hưởng đến chi phí sản xuất kinh doanh, làm gia tăng gánh nặng cho doanh nghiệp.
Về nguyên vật liệu, các doanh nghiệp kiến nghị Nhà nước cần có các biện pháp nhằm bình ổn giá nguyên vật liệu đầu vào một cách hiệu quả hơn.
Ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác có đến 40,7% doanh nghiệp kiến nghị cần bình ổn giá nguyên vật liệu và năng lượng; tập trung ở các địa phương Thái Bình 62,5%; Hưng Yên 43,8%; Đồng Nai 33,3%.
Ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) có 35,6% doanh nghiệp kiến nghị, tập trung chủ yếu ở địa phương Hải Phòng 47,8%; Hà Nội 35,0%; TP Hồ Chí Minh 32,6%.
Có 25,4% doanh nghiệp mong có nguồn cung nguyên vật liệu ổn định. Ngành chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế) có 32,1% doanh nghiệp kiến nghị, tập trung chủ yếu ở các địa phương Thanh Hóa 33,3%; Bình Định 28,6%.
Ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác có 34,6% doanh nghiệp kiến nghị, tập trung chủ yếu ở các địa phương Thái Bình 62,5%; Hà Nội 28,6%; Bình Định 21,7%.
Có 25,9% doanh nghiệp kiến nghị cần cải cách thủ tục hành chính đồng bộ hơn nữa. Ngành công nghiệp nặng như sản xuất xe có động cơ có 33,3% doanh nghiệp kiến nghị, tập trung chủ yếu ở các địa phương Hà Nội 33,3%; Bình Dương 25,0%; Đồng Nai 20,0%.