Du lịch miền núi đang bị “cầm chân” bởi hạn chế về hạ tầng và quy hoạch
| Minh Châu - điểm đến du lịch yên bình, nên thơ giữa sông Hồng Du lịch Hà Nội xây dựng hệ sinh thái số vì tăng trưởng xanh |
Ngày 29/10, tại phiên thảo luận về kinh tế - xã hội trong khuôn khổ kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, đề cập đến những điểm nghẽn về hạ tầng và quy hoạch ở khu vực miền núi, đại biểu Đặng Thị Bảo Trinh (đoàn Đà Nẵng) cho biết, chỉ trong ít tuần, đất nước ta liên tiếp hứng chịu những đợt thiên tai khốc liệt.
Theo bà Trinh, mới tháng trước, mưa lớn kéo dài đã gây lũ quét, sạt lở đất nghiêm trọng tại nhiều tỉnh miền núi phía Bắc… Chưa kịp khắc phục xong hậu quả, thì những ngày này, các tỉnh miền Trung lại chìm trong mưa lũ, ngập sâu, sạt lở; nhiều khu dân cư bị chia cắt, hàng nghìn hộ dân phải di dời khẩn cấp.
Trong khi các lực lượng chức năng đang nỗ lực ngày đêm ứng cứu, hỗ trợ người dân, điều đất nước cần hơn bao giờ hết không chỉ là “tiếp sức” mà là “kiểm soát” và “phòng ngừa” bằng việc đánh giá lại tác động môi trường, rà soát quy hoạch và quản lý phát triển hạ tầng, dân cư phù hợp với quy luật tự nhiên.
Đại biểu Trinh khẳng định vùng miền núi, trung du của nước ta là kho báu tự nhiên vô giá, nơi hội tụ cảnh quan hùng vĩ, khí hậu mát dịu cùng những giá trị văn hoá bản địa độc đáo. Từ ruộng bậc thang, thác nước, rừng nguyên sinh đến nghề dệt thổ cẩm, ẩm thực, lễ hội và tri thức dân gian của đồng bào các dân tộc, đó là nguồn lực phát triển xanh, bền vững.
![]() |
| Đại biểu Đặng Thị Bảo Trinh (đoàn Đà Nẵng). |
Tuy nhiên, theo bà Trinh, du lịch miền núi vẫn đang bị “cầm chân” bởi chính những hạn chế về hạ tầng và quy hoạch. Nhiều vùng có tiềm năng lớn nhưng vẫn “đứng ngoài bản đồ du lịch quốc gia”.
Đại biểu Đặng Thị Bảo Trinh cũng cho rằng, đây là lúc cần xác lập rõ định hướng “hạ tầng chống chịu thiên tai” trong quy hoạch quốc gia và kế hoạch đầu tư công trung hạn. Ưu tiên cho các tuyến kết nối vùng, đường liên xã, liên tỉnh, đảm bảo lưu thông kinh tế, văn hoá, xã hội phục vụ phát triển khu vực miền núi. Thực trạng hiện nay, khu vực miền núi đang phải gánh chịu cùng lúc nhiều sức ép.
Để khắc phục và kiến tạo sự phát triển bền vững cho khu vực này, đại biểu đề nghị cần thiết lập một cơ chế đánh giá tổng thể, liên ngành và theo chuỗi thời gian về tác động cộng hưởng giữa xây dựng – khai thác – quy hoạch dân cư đối với cân bằng sinh thái. Đây phải là điều kiện bắt buộc trước khi phê duyệt các dự án vùng núi. Trên cơ sở đó, Chính phủ cần chỉ đạo xây dựng bản đồ cảnh báo sạt lở về thiên tai, công khai trên hệ thống số quốc gia, để người dân và chính quyền chủ động ứng phó.
Nữ đại biểu kiến nghị cần chuyển mạnh từ đầu tư xây dựng hạ tầng sang kiến tạo hạ tầng bền vững. Mọi công trình miền núi cần được thiết kế đáp ứng tiêu chí chống chịu thiên tai, địa chất. Quy hoạch đầu tư công trung hạn, cần ưu tiên cho các tuyến giao thông liên vùng, liên xã, các công trình dân sinh, giáo dục, y tế.
“Việc đầu tư cho du lịch miền núi để phát triển kinh tế, bảo tồn di sản văn hoá phải được xem là một trụ cột trong chiến lược phát triển vùng và quốc gia để vừa mở ra không gian phát triển, vừa bảo tồn bản sắc và môi trường sinh thái núi rừng. Có cơ chế, chính sách thuận lợi hơn để người dân, đặc biệt là phụ nữ và đồng bào dân tộc thiểu số – trở thành chủ thể trong phát triển du lịch miền núi”, đại biểu Đặng Thị Bảo Trinh đề nghị.
![]() |
| Đại biểu Khang Thị Mào (đoàn Lào Cai). |
Cũng quan tâm đến sự phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực miền núi, đại biểu Khang Thị Mào (đoàn Lào Cai) khẳng định, khu vực miền núi có vị trí địa chính trị, kinh tế, văn hóa đặc biệt quan trọng, là phên dậu vững chắc của Tổ quốc. Song đây cũng là vùng kinh tế còn nhiều khó khăn, tỉ lệ hộ nghèo đa chiều cao nhất cả nước, hạ tầng thiếu đồng bộ, nguồn nhân lực còn hạn chế.
Theo bà Mào, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 11 ngày 10/2/2022 về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045. Đây là văn kiện có ý nghĩa chiến lược của Đảng, Nhà nước, nhằm khai thác các tiềm năng lợi thế, nổi trội, khơi dậy nội lực, thu hút nguồn lực xã hội, đưa vùng này phát triển nhanh, bền vững, thu hẹp khoảng cách với các vùng khác.
Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết số 96 ngày 1/8/2022 về chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị, với 17 nhóm nhiệm vụ, giải pháp và 33 dự án liên kết vùng.
Bà Mào cho biết, qua hơn 3 năm triển khai đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, vùng trung du và miền núi Bắc Bộ bước đầu đã đạt được kết quả quan trọng, thể hiện chuyển biến rõ nét về thể chế, quy hoạch, tăng trưởng kinh tế - xã hội và quốc phòng an ninh. Nhiều cơ chế chính sách đặc thù được ban hành, từng bước tháo gỡ điểm nghẽn trong đầu tư công và liên kết vùng.
Bên cạnh những kết quả đạt được, đại biểu cho rằng, việc triển khai nghị quyết của Bộ Chính trị vẫn còn một số tồn tại hạn chế bất cập. Đó là tiến độ một số nhóm nhiệm vụ và dự án trọng điểm còn chậm, thiếu đồng bộ, nhất là các dự án giao thông kết nối, đường sắt, cảng hàng không. Nguyên nhân chủ yếu do vướng mắc trong quy hoạch, giải phóng mặt bằng, huy động vốn và cơ chế phối hợp giữa các vùng chưa thật sự hiệu quả.
Công tác điều phối và quản lý phát triển vùng còn thiếu thống nhất, chưa thực sự đồng bộ giữa các bộ, ngành và địa phương dẫn đến hiệu quả liên kết vùng chưa cao.
Một số mục tiêu, chỉ tiêu của nghị quyết chưa được cập nhật kịp thời, chưa phù hợp với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp và yêu cầu phát triển mới. Cơ chế tài chính đặc thù và Quỹ đầu tư phát triển vùng chưa được hình thành. Việc huy động các nguồn lực xã hội và đầu tư doanh nghiệp cho hạ tầng chiến lược còn hạn chế…
Do đó, để hoàn thành các mục tiêu chiến lược trong nghị quyết, đặc biệt là giai đoạn 2025-2030, đại biểu Khang Thị Mào đề nghị Chính phủ quan tâm chỉ đạo tiếp tục hoàn thiện cơ chế điều phối và quản lý phát triển vùng, bảo đảm thống nhất trong quy hoạch đầu tư và phát triển các dự án liên kết vùng.
Đồng thời cần rà soát điều chỉnh bổ sung quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, các mục tiêu chỉ tiêu của Nghị quyết 11 và Nghị quyết 96 phù hợp với mô hình tổ chức chính quyền địa phương hai cấp và yêu cầu nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn mới.
Cùng với đó, Chính phủ cần nghiên cứu ban hành cơ chế tài chính đặc thù cho phép hình thành Quỹ đầu tư phát triển vùng, nhằm huy động hiệu quả nguồn lực xã hội, vốn ODA và vốn đầu tư doanh nghiệp cho các dự án hạ tầng chiến lược.
Đại biểu cũng đề nghị Chính phủ chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ và bảo đảm tính đồng bộ trong triển khai các dự án hạ tầng trọng yếu, nhất là các tuyến cao tốc, tiền cao tốc và đường sắt, hình thành trục kết nối liên hoàn giữa vùng trung du và miền núi Bắc Bộ, với Bắc Trung Bộ và Đồng bằng sông Hồng; ưu tiên bố trí vốn trung hạn cho các dự án cảng hàng không, vành đai biên giới, giao thông đường thủy, hạ tầng logistic và giao thông đa phương thức.
Chính phủ cần sớm hoàn thành mục tiêu của Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị và xây dựng và phát triển vùng trung du và miền núi Bắc Bộ trở thành vùng phát triển xanh, bền vững và toàn diện, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế của đất nước trong kỷ nguyên mới.




