Đề xuất nâng mức giảm trừ gia cảnh lên 20-25 triệu đồng
| Chính thức tăng giảm trừ gia cảnh tính thuế thu nhập cá nhân |
PGS.TS Phan Hữu Nghị, Phó Viện trưởng Viện Ngân hàng - Tài chính, Đại học Kinh tế Quốc dân, trong khuôn khổ buổi Hội thảo "Luật Thuế thu nhập cá nhân - đảm bảo công bằng, thúc đẩy tăng trưởng" do Báo Lao Động phối hợp với Đại học Kinh tế Quốc dân tổ chức chiều 14/3.
Theo ông Nghị, khấu trừ thuế là một vấn đề quan trọng trong hệ thống thuế thu nhập cá nhân, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến số đối tượng nộp thuế và số thuế phải nộp.
Hiện nay, khi xem xét thu nhập chịu thuế, cần tính đến chi phí cần thiết để tạo ra thu nhập, bao gồm cả chi phí sinh hoạt hàng ngày (đi lại, ăn uống, tái sản xuất sức lao động) và chi phí từ quá khứ như chi phí học hành, đào tạo... để có công việc và thu nhập ngày hôm nay.
Tuy nhiên, hệ thống thuế hiện hành có thể chưa phản ánh đầy đủ những yếu tố này, dẫn đến việc đánh thuế chưa thực sự công bằng đối với người lao động.
![]() |
| Ông Nguyễn Đức Thành, Phó Tổng Biên tập Báo Lao Động phát biểu tại hội thảo. |
Một trong những tranh luận lớn hiện nay là mức giảm trừ gia cảnh. Hiện tại, mức giảm trừ này đang áp dụng thống nhất trên toàn quốc, bất kể sự khác biệt về chi phí sinh hoạt giữa các tỉnh thành. Điều này dẫn đến bất cập khi chi phí sinh hoạt ở Hà Nội hay TP HCM cao hơn đáng kể so với các tỉnh khác, nhưng người dân ở đây vẫn chỉ được hưởng mức giảm trừ giống nhau.
Tuy nhiên, nếu chia nhỏ mức giảm trừ gia cảnh theo khu vực, có thể gây ra sự phức tạp trong quản lý và thực thi. Trong khi nguyên tắc quản lý thuế là áp dụng chính sách phải thống nhất.
Ông Nghị cho rằng, một vấn đề quan trọng là cần có số liệu về phổ thu nhập của người lao động. Theo ước tính hiện nay nhóm thu nhập từ 18-23 triệu đồng/tháng (8.400-10.500 USD/năm) đang chiếm tỷ trọng lớn nhất trong lực lượng lao động.
Khi xây dựng chính sách thuế, cần xác định mức thu nhập nào được coi là cao để bắt đầu áp thuế. Nếu xác định sai ngưỡng thu nhập cao, có thể dẫn đến việc người lao động thu nhập trung bình, chiếm phần lớn đối tượng lao động cũng phải chịu thuế suất cao, gây áp lực tài chính lớn. Nếu có số liệu thống kê về phổ thu nhập của người lao động nên đánh thuế ở sau mức thu nhập tập trung số người nhiều nhất.
![]() |
| PGS.TS Phan Hữu Nghị, Phó Viện trưởng Viện Ngân hàng - Tài chính, Đại học Kinh tế Quốc dân. |
Do đó, mức thu nhập bị đánh thuế cao nên cân nhắc được điều chỉnh từ 20-25 triệu đồng/tháng để phản ánh đúng thực trạng thu nhập và tránh đánh thuế nặng vào nhóm thu nhập trung lưu, tạo sự ổn định theo thời gian bên cạnh tập trung quản lý nhóm siêu giàu.
Ông Nghị đặt vấn đề, bắt đầu áp dụng Luật thuế Thu nhập cá nhân từ 2009 với mắc giảm trừ là 4 triệu đồng, sau đó đã được điều chỉnh lên 11 triệu đồng. Tuy nhiên, với tình hình giá cả sinh hoạt và chi phí sống ngày càng tăng, câu hỏi đặt ra là mức này có còn hợp lý hay không?.
Theo PGS.TS Phan Hữu Nghị, việc xác định mức giảm trừ cần dựa trên các yếu tố như: Chỉ số CPI để phản ánh lạm phát; thu nhập bình quân đầu người để phù hợp với mức sống chung; mức lương tối thiểu để đảm bảo người lao động có đủ chi phí duy trì cuộc sống.
Nếu các chỉ số này có sự gia tăng đáng kể, mức giảm trừ gia cảnh cũng cần được điều chỉnh theo tương ứng, thay vì giữ nguyên trong thời gian dài mà không có sự thay đổi phù hợp với thực tế. Điều chỉnh lần sau cũng cần tính đến sự ổn định trong một khoảng thời gian sau đó.
Cũng bình luận về vấn đề giảm trừ gia cảnh, PGS.TS Lê Xuân Trường, Trưởng khoa Thuế, Học viện Tài chính cho biết, giảm trừ gia cảnh là số tiền trừ vào thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân khi xác định thu nhập tính thuế dựa trên hoàn cảnh gia đình của người nộp thuế.
![]() |
| PGS.TS Lê Xuân Trường, Trưởng khoa Thuế, Học viện Tài chính phân tích về giảm trừ gia cảnh. |
Theo thông lệ các nước, giảm trừ gia cảnh thường được áp dụng đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công hoặc/và thu nhập từ kinh doanh của cá nhân cư trú. Đối với những nước đánh thuế thu nhập cá nhân trên tổng thu nhập thì giảm trừ gia cảnh được xác định khi xác định thu nhập tính thuế đối với tổng thu nhập.
Quy định giảm trừ xuất phát từ quan điểm đánh thuế thu nhập cá nhân phải đảm bảo sau khi nộp thuế, người nộp thuế có thu nhập để trang trải cuộc sống ở mức trung bình của xã hội. Điều này có nghĩa là, xác định mức giảm trừ sao cho sau khi nộp thuế cho nhà nước thì người nộp thuế đảm bảo cuộc sống ở mức cần thiết trung bình xã hội.
Từ đó, đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của dân cư và đảm bảo đời sống cho người nộp thuế. Tức là, phần thu nhập còn lại để đảm bảo cuộc sống của người nộp thuế là phần giảm trừ gia cảnh cộng với phần thu nhập còn lại sau khi nộp thuế của phần vượt trên mức giảm trừ gia cảnh.
Ví dụ, một người độc thân, có mức thu nhập một tháng là 16 triệu đồng. Sau khi giảm trừ gia cảnh 11 triệu đồng thì thu nhập tính thuế là 5 triệu đồng. Với mức thu nhập này, số thuế thu nhập cá nhân người này phải nộp là 250.000 đồng. Như vậy, thu nhập sau khi nộp thuế của cá nhân này là 15.750.000 đồng.
Tác động của giảm trừ gia cảnh là làm giảm thu nhập tính thuế. Từ đó, làm giảm số thuế phải nộp của cá nhân. Tùy theo mức thu nhập của cá nhân mà tác động của giảm trừ gia cảnh đến mức độ giảm thuế phải nộp của mỗi cá nhân khác nhau.
Ở ví dụ trên, theo biểu thuế lũy tiến từng phần hiện hành của Việt Nam, do giảm trừ gia cảnh mà cá nhân đó được giảm thuế phải nộp so với trường hợp không có giảm trừ gia cảnh là: (16 – 10) x 15% + (10 – 5) x 10% + 5 x 5% - 250.000 = 1.400.000 đồng.
Nếu không được giảm trừ gia cảnh thì cá nhân này phải nộp 1.650.000 đồng và như vậy, thu nhập còn lại sau khi nộp thuế là 14.350.000 đồng. Do được giảm trừ gia cảnh mà thu nhập còn lại sau thuế là 15.750.000 đồng. Xem xét khía cạnh công bằng thuế khi xác định giảm trừ gia cảnh, công bằng được xét trên hai phương diện là công bằng theo chiều ngang và công bằng theo chiều dọc.
Ông Trường cũng nêu kinh nghiệm ở quốc tế, ví dụ ở Indonesia, giảm trừ bản thân người nộp thuế hiện hành là 54 triệu Rupiah, tương đương khoảng 3.482 USD, mức giảm trừ cho người phụ thuộc là 4,5 triệu Rupiah/người, tương đương khoảng 290 USD. Indonesia quy định người phụ thuộc được giảm từ bao gồm vợ hoặc chồng của người nộp thuế và con của người nộp thuế.
Tuy vậy, Indonesia giới hạn giảm trừ tối đa cho 3 con. Như vậy, với GDP bình quân đầu người của Indonesia năm 2024 là 4.981 USD thì mức giảm trừ giảm trừ bản thân người nộp thuế bằng khoảng 0,7 lần GDP bình quân đầu người. Nếu tính cả mức giảm trừ cho người phụ thuộc thì tùy theo hoàn cảnh gia đình của người nộp thuế mà mức giảm trừ gia cảnh ở Indonesia bằng khoảng từ 0,7 lần đến 1,1 lần GDP bình quân đầu người.
Ở Singapore, mức giảm trừ cho bản thân người nộp thuế tăng dần theo độ tuổi. Theo đó, người dưới 55 tuổi được giảm trừ 4.000 SGD (khoảng 2.962 USD), người từ 55 đến 59 tuổi được giảm trừ 10.000 SGD (khoảng 7.407 USD), người từ 60 tuổi trở lên được giảm trừ 12.000 SGD (khoảng 8.888 USD). Như vậy, với GDP bình quân đầu người của Singapore năm 2024 khoảng 89.372 USD thì mức giảm trừ bản thân người nộp thuế bằng khoảng từ 0,033 lần đến 0,099 lần GDP bình quân đầu người.
Hay tại Anh, mức giảm trừ bản thân người nộp thuế cho năm tính thuế 2024/2025 là 12.570 Bảng Anh (khoảng 15.838 USD). Với GDP bình quân đầu người năm 2024 khoảng 52.423 USD thì mức giảm trừ bản thân ở Anh bằng khoảng 0,3 lần GDP bình quân đầu người.
Tuy nhiên, mức giảm trừ bản thân người nộp thuế ở Anh có điểm đặc biệt là, khi người nộp thuế có thu nhập chịu thuế trong năm tính thuế vượt quá 100,000 Bảng Anh thì khi thu nhập tăng 2 Bảng Anh, mức giảm trừ giảm 1 Bảng Anh. Điều này có nghĩa là khi người nộp thuế có thu nhập chịu thuế từ 125.140 Bảng Anh trở lên thì mức giảm trừ bản thân bằng 0.
Như vậy, khi tính thuế thu nhập cá nhân, tất cả các quốc gia đều cho giảm trừ bản thân người nộp thuế. Mức giảm trừ bản thân có nhiều khác biệt giữa các quốc gia, tương đương khoảng từ 0,03 lần đến xấp xỉ 1 lần GDP bình quân đầu người. Mức giảm trừ gia cảnh (bao gồm cả người phụ thuộc) tương đương khoảng từ 0,1 lần đến 2 lần GDP bình quân đầu người.
Ở các nước đang phát triển thì mức giảm trừ gia cảnh so với GDP bình quân đầu người thường cao hơn ở các nước phát triển. Đối tượng được giảm trừ đối với người phụ thuộc phổ biến nhất là vợ/chồng, con, cha, mẹ của người nộp thuế. Một số quốc gia áp dụng giảm trừ thêm cho bản thân người nộp thuế hoặc người phụ thuộc là người khuyết tật. Xu hướng xác định mức giảm trừ gia cảnh định kỳ hàng năm đang được mở rộng áp dụng ở một số nước trên thế giới.
Về tần suất điều chỉnh mức giảm trừ, xu hướng các nước là mức giảm trừ hàng năm. Chẳng hạn như ở Anh, mức giảm trừ năm tính thuế 2016/2017 là 11.000 Bảng Anh, năm tính thuế 2017/2018 nâng lên là 11.5000 Bảng Anh, năm tính thuế 2018/2019 tăng tiếp lên 11.850 Bảng Anh, năm tính thuế 2019/2020 lên 12.500 Bảng Anh và giữ mức nguyên mức này cho năm tính thuế 2020/2021, năm tính thuế 2021/2022 được điều chỉnh lên mức 12.570 Bảng Anh và giữ nguyên mức này cho 3 năm tính thuế tiếp theo đến năm tính thuế 2024/2025.
Khi so sánh mức giảm trừ bản thân của Việt Nam với GDP bình quân đầu người thì mức giảm trừ bản thân của Việt Nam đang ở mức trung bình khá. Với mong muốn cải thiện đời sống người dân, nếu nâng mức giảm trừ gia cảnh lên, tức là số người nộp thuế sẽ ít đi, những người phải nộp cũng sẽ phải nộp thuế ít đi.
Tuy nhiên, việc xác định mức giảm trừ gia cảnh có phù hợp không, có công bằng không cần xét nhiều yếu tố có liên quan khác như các mức thuế suất cụ thể và các ngưỡng trong biểu thuế, các khoản giảm trừ khác ngoài giảm trừ gia cảnh, GDP theo ngang giá sức mua…
Từ những phân tích trên về bản chất của giảm trừ gia cảnh, thông lệ quốc tế và thực tiễn Việt Nam, ông Trường cho rằng, trong khoảng 5 năm tới nước ta vẫn ở nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình nên cần chấp nhận xác định mức giảm trừ gia cảnh tương đối cao so với GDP.
Đồng thời, do điều kiện kinh tế thay đổi, chỉ số CPI… cần phải xem xét mức giảm trừ gia cảnh đảm bảo mức dự báo để tránh lạc hậu; nên xác định mức giảm trừ gia cảnh hàng năm cho phù hợp, giao quyền cho Chính phủ quyết định mức giảm trừ gia cảnh hàng năm là phù hợp nhất; cũng cần tham khảo các nước để bổ sung giảm trừ cho đối tượng người nộp thuế là người khuyết tật.





