Còn mãi một huyền thoại Pele
Vĩnh biệt huyền thoại "Vua bóng đá" Pele |
Bàn thắng đầu tiên
Pele được sinh ra tại Três Corações, Minas Gerais, Brasil, con trai của cầu thủ bóng đá Fluminense Dondinho (tên khai sinh: João Ramos do Nascimento) và Celeste Arantes. Ông có một người em ruột. Và được đặt tên Edson theo tên nhà phát minh người Mỹ Thomas Edison.
Pele khi còn nhỏ |
Hồi còn đi học, Pele đã có biệt danh "Pele" vì tên của cầu thủ ưa thích của ông, thủ môn của đội Vasco da Gama Bilé, đã bị ông phát âm sai thành "Pele". Hồi nhỏ, cậu bé Pele lớn lên trong một gia đình nghèo ở Bauru ở bang São Paulo. Ông kiếm tiền bằng cách làm việc trong các cửa hàng chè như một người phục vụ. Được cha dạy đá bóng, nhưng ông không có được một quả bóng đá phù hợp và thường chơi bóng với một cái túi nhồi báo được buộc chặt.
Khi còn nhỏ ông chơi cho một số đội nghiệp dư: Sete de Setembro, Canto do Rio, São Paulinho, và Amériquinha.
Năm 1956, HLV Waldemar de Brito (Bauru Athletic Club Junior) đưa Pele đến Santos, một thành phố cảng công nghiệp nằm gần São Paulo, để thử đá chuyên nghiệp với câu lạc bộ chuyên nghiệp Santos FC. Ngay lập tức, Pele đã gây ấn tượng với HLV Santos Lula trong thời gian thử việc tại Estádio Vila Belmiro, và ông đã ký hợp đồng chuyên nghiệp với CLB này vào tháng 6/1956.
Ngày 7/9/1956 ở tuổi 15, Pele có màn trình diễn đẹp mắt, ghi bàn thắng đầu tiên |
Ngày 7/9/1956 ở tuổi 15, Pele ra mắt CLB và có một màn trình diễn ấn tượng hôm đó trong chiến thắng 7–1 của đội bóng, ghi bàn thắng đầu tiên trong sự nghiệp sung mãn của mình.
Khi mùa giải 1957 bắt đầu, Pelé đã được trao một vị trí xuất phát trong đội hình chính và ở tuổi 16, trở thành cầu thủ ghi bàn hàng đầu trong giải đấu. Mười tháng sau khi ký hợp đồng chuyên nghiệp, ông được gọi lên đội tuyển quốc gia Brasil.
Pele giành danh hiệu lớn đầu tiên của mình với Santos vào năm 1958 khi đội giành được Campeonato Paulista. Pele kết thúc giải đấu với tư cách là cầu thủ ghi bàn nhiều nhất với 58 bàn thắng, một kỷ lục đứng vững cho tới ngày nay.
Số 10 đã gắn với vua bóng đá Pele như một định mệnh |
Năm 1960, Pele ghi 33 bàn thắng để giúp đội của mình giành lại danh hiệu Campeonato Paulista nhưng đã thua trong giải đấu Rio-São Paulo sau khi kết thúc ở vị trí thứ 8.
Mùa Copa Libertadores thành công nhất của Santos bắt đầu vào năm 1962, Pelé ghi hai bàn trong trận playoff và giành danh hiệu vô địch Copa Libertadores đầu tiên cho một câu lạc bộ Brasil.
Những dấu mốc đáng nhớ
Năm 1958: Tuy bị chấn thương đầu gối, nhưng Pele vẫn được chọn đá với Liên Xô vào WC 1958 trận 3 vòng bảng và trở thành cầu thủ trẻ nhất từng đá ở WC.
29/6/1958, Pele trở thành cầu thủ trẻ nhất chơi trong trận chung kết World Cup với 17 tuổi và 249 ngày. Anh ghi hai bàn thắng trong trận chung kết đó khi Brasil đánh bại Thụy Điển 5–2 tại thủ đô Stockholm. Chính tại giải vô địch thế giới năm 1958, Pelé bắt đầu mặc chiếc áo số 10. Việc này là kết quả của sự tổ chức kém: các nhà lãnh đạo của bóng đá Brasil đã không gửi số áo của các cầu thủ và FIFA đã chọn số 10 cho Pelé, người vào sân thay thế.
Đôi chân "vàng" cùng niềm say mê bóng đá đã làm nên huyền thoại Pele |
Trận đấu quốc tế cuối cùng của Pele diễn ra vào ngày 18/7/1971 với Nam Tư ở Rio de Janeiro. Với Pele trên sân, kỷ lục của Brasil là 67 trận thắng, 14 trận hòa và 11 trận thua. Brasil không bao giờ thua khi có cả Pelé và Garrincha trong đội hình.
Phong cách chơi độc đáo của Pele là kết hợp tốc độ, sáng tạo và kỹ năng kỹ thuật với sức mạnh thể chất, sức chịu đựng và bền bỉ. Kỹ thuật tuyệt vời, sự cân bằng, tinh tế, nhanh nhẹn và kỹ năng rê bóng của Pele cho phép anh thường đi bóng qua đối thủ, và thường xuyên sử dụng những thay đổi hướng đột ngột và những pha lừa bóng tinh vi để vượt qua các cầu thủ, như cách di chuyển mang thương hiệu của Pele . Một trong những động thái đặc trưng khác của anh là “paradinha””- dừng bóng đột ngột.
Pele được các đồng đội và cả đối thủ nhận xét là luôn vui vẻ, lạc quan và rất ghét đá phạt đền, do ông cho đó là một cách ghi bàn hèn nhát.
Còn mãi một ngôi sao huyền thoại
Năm 1977, truyền thông Brasil đưa tin Pele đã phải cắt bỏ thận phải. Tháng 2/2020, con trai ông, Edinho, đã thông báo rằng Pele không thể tự đi lại và không muốn ra khỏi nhà, cho rằng tình trạng yếu ớt của ông là do thiếu hồi phục sau ca phẫu thuật hông.
Sau khi giải nghệ, “vua bóng đá Pele” đã từng được được bổ nhiệm thành Đại sứ Thiện chí của UNESCO. Ông cũng từng nhận nhận chức Bộ trưởng Thể thao đặc biệt; danh hiệu Hiệp sĩ danh dự từ Nữ hoàng Anh.
Pele cũng là siêu sao da màu toàn cầu đầu tiên, là ngôi sao sáng nhất của tập thể Brazil vĩ đại bậc nhất lịch sử. |
Cựu cầu thủ này cũng từng xuất bản nhiều cuốn tự truyện, đóng vai chính trong phim tài liệu, và sáng tác các bản nhạc, trong đó có nhạc nền cho bộ phim Pele năm 1977.
Ông xuất hiện trong bộ phim Escape to Victory năm 1981. Nội dung phim nói về một trận đấu bóng đá trong thế chiến II giữa các tù binh đồng minh và một đội tuyển Đức. Pelé đóng vai chính bên cạnh những cầu thủ bóng đá khác trong những năm 1960 và 1970, với các diễn viên Michael Caine và Sylvester Stallone.
Pele cũng là siêu sao da màu toàn cầu đầu tiên, là ngôi sao sáng nhất của tập thể Brasil vĩ đại bậc nhất lịch sử. Như chính Pele từng khẳng định: "Pele không có màu da, sắc tộc hay tôn giáo riêng nào. Pele được chấp nhận ở khắp mọi nơi". Giờ đây, ngay cả khi Pele mất đi, tình yêu, niềm say mê bóng đá và những pha ghi bàn của ông vẫn mãi là niềm cảm hứng cho người hâm mộ môn túc cầu thế giới.