Cơ chế đặc thù giúp Hà Nội phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế
Đại biểu Trương Xuân Cừ (Đoàn ĐBQH TP Hà Nội):
Thực ra, Đảng và Nhà nước ta cũng đã xác định chủ trương, đường lối phát triển đất nước là phải có các cơ chế đặc thù để tạo động lực phát triển. Các cơ chế đặc thù dành cho Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã có từ lâu. Việc Quốc hội thông qua cơ chế đặc thù cho các 3 địa phương này ở kỳ họp lần thứ 10 là kịp thời, cần thiết, bởi lẽ, phát triển hai thành phố Hà Nội, TP Hồ Chí Minh cũng chính là động lực để thúc đẩy nền kinh tế quốc gia.
![]() |
| Đại biểu Trương Xuân Cừ (Đoàn ĐBQH TP Hà Nội) |
Chúng ta thấy rằng, TP Hà Nội, cũng như của Thành phố Hồ Chí Minh, đều có những dự án rất lớn, ví dụ như các dự án đường sắt trên cao, các tuyến đường vành đai 3, 4…. Do đó, nếu không có các chính sách đặc thù thì chắc chắn tiến độ các dự án sẽ không được bảo đảm.
Thực tế trong một, hai nhiệm kỳ trước, chúng ta đã thấy rất nhiều dự án chậm tiến độ, gây ra những hệ lụy rất lớn. Vì vậy, các chính sách đặc thù này nhằm tập trung nguồn lực đầu tư cho hai thành phố, đặc biệt là TP Hà Nội, để các dự án phát huy hiệu quả tốt nhất, phục vụ an sinh xã hội, tập trung vào phát triển Thủ đô Hà Nội nói riêng và góp phần vào sự phát triển chung của đất nước.
Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga (Đoàn ĐBQH TP Hải Phòng):
Tôi nhớ rằng, tại Kỳ họp thứ 8 và Kỳ họp thứ 9 của Quốc hội khóa XV, chúng ta đã xem xét Luật Thủ đô, xem xét các cơ chế đặc thù cho Thành phố Hồ Chí Minh. Đến Kỳ họp thứ 10, chúng ta lại tiếp tục xem xét cơ chế đặc thù cho Thủ đô Hà Nội và cho Thành phố Hồ Chí Minh. Cũng có những cử tri đặt câu hỏi với chúng tôi rằng tại sao lại liên tiếp sửa đổi các quy định liên quan đến cơ chế đặc thù như vậy?
Trước đây, Thành phố Hồ Chí Minh cũ chỉ là một thành phố có quy mô nhỏ hơn, còn hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh sau sáp nhập đã có tầm vóc và diện mạo lớn hơn rất nhiều, trong đó có sáp nhập cả tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và tỉnh Bình Dương.
![]() |
| Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga (Đoàn ĐBQH TP Hải Phòng) |
Với một thành phố có diện mạo, tầm vóc lớn hơn, thậm chí các điều kiện về kinh tế, văn hóa, xã hội và địa lý cũng khác so với Thành phố Hồ Chí Minh cũ, thì các cơ chế, chính sách đặc thù được xem xét khi Thành phố Hồ Chí Minh chưa sáp nhập hoàn toàn khác với khi đã sáp nhập. Với một diện mạo mới, một chiều kích mới, các cơ chế đặc thù cũ giống như một “tấm áo” đã trở nên quá chật.
Vì vậy, nhất thiết chúng ta phải rà soát để sửa đổi một số chính sách liên quan đến cơ chế đặc thù nhằm phát triển Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới, làm sao phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế và thế mạnh của Thành phố Hồ Chí Minh.
Điều này cũng rất thống nhất với chủ trương của Đảng và Nhà nước khi thực hiện sáp nhập các đơn vị hành chính cấp tỉnh, đó là làm sao để các địa phương sau sáp nhập có thể phát triển tối đa tiềm năng, lợi thế của mình. Vì vậy, tôi cho rằng việc xem xét cơ chế đặc thù đối với Thành phố Hồ Chí Minh trong thời điểm hiện tại là hoàn toàn hợp lý.
Đối với Hà Nội cũng vậy. Tuy không chịu tác động của việc sáp nhập các đơn vị hành chính cấp tỉnh trong giai đoạn này, nhưng Thủ đô Hà Nội cũng có rất nhiều điểm mới để phát triển kinh tế – xã hội, có nhiều chương trình mới, nhiều dự án mới. Là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của cả nước, nơi đặt trụ sở của hầu hết các bộ, ngành Trung ương, các cơ quan Trung ương, tôi cho rằng, Thủ đô Hà Nội cần các cơ chế, chính sách đặc thù.
Ngoài Thủ đô Hà Nội, Quốc hội cũng đã xem xét, thông qua nhiều cơ chế đặc thù khác nhau để thực hiện các dự án trọng điểm quốc gia, ví dụ như các dự án liên quan đến hệ thống đường sắt cao tốc và các dự án trọng điểm quốc gia khác. Khi triển khai các dự án này, nếu không áp dụng một số cơ chế đặc thù thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc, đến từ nhiều phía.
Ví dụ, các quy định pháp luật hiện hành khi áp dụng vào các công trình trọng điểm như vậy sẽ phát sinh những vấn đề nổi cộm, trong khi một số quy định của pháp luật chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn. Nếu chờ sửa đổi các quy định của pháp luật thì sẽ mất một khoảng thời gian không ngắn. Trong khoảng thời gian đó, dự án càng chậm trễ thì càng bỏ lỡ cơ hội phát triển kinh tế – xã hội, thậm chí gây ra sự lãng phí và bỏ lỡ nhiều cơ hội khác.
Chính vì vậy, việc ban hành một số cơ chế, chính sách đặc thù để tháo gỡ ngay những khó khăn, vướng mắc chưa được quy định trong hệ thống pháp luật hiện hành là rất cần thiết. Thông qua các nghị quyết của Quốc hội, chúng ta có thể tháo gỡ kịp thời những vướng mắc này, để các dự án trọng điểm khi đi vào khai thác sẽ tạo ra tác động rất lớn, trở thành động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế – xã hội của Hà Nội cũng như của cả nước.
Do đó, tôi kỳ vọng rằng, Nghị quyết có hiệu lực, các cơ quan chức năng, các đơn vị có trách nhiệm sẽ triển khai ngay, tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc đúng với tiến độ dự án đã đề ra. Tránh trường hợp chúng ta đã tháo gỡ được vướng mắc về mặt thể chế nhưng trong khâu tổ chức thực hiện vẫn còn chậm chạp, làm giảm ý nghĩa của cơ chế đặc thù và của việc ban hành nghị quyết.
GS Hoàng Văn Cường (Đoàn ĐBQH TP Hà Nội):
Chúng ta biết rằng, Hà Nội đang trong một quá trình phải có rất nhiều thay đổi để trở thành một Thủ đô văn minh, hiện đại, ngang tầm với các thủ đô trên thế giới. Và chúng ta phải triển khai rất nhiều đại dự án trong các lĩnh vực như tái thiết đô thị, kết nối hạ tầng, chống ngập, môi trường. Rõ ràng, chúng ta cần có các nhà đầu tư rất lớn, đồng thời cũng cần có các thủ tục triển khai rất nhanh, rất quyết liệt.
![]() |
Nghị quyết đặc thù của Thủ đô đã đưa ra những cơ chế để chúng ta thu hút được các nhà đầu tư thực sự có tiềm năng, có tiềm lực, để không bị vướng vào những thủ tục hành chính, pháp lý khi triển khai các dự án. Đồng thời, Nghị quyết cũng có những quy định để chúng ta khai thác chính các nguồn lực tạo ra từ dự án, từ các chương trình đầu tư đó, qua đó tạo nguồn lực cho sự phát triển của Thủ đô.
| Nghị quyết thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện các dự án lớn quan trọng trên địa bàn Thủ đô vừa được Quốc hội thông qua ngày 11/12 với sự đồng thuận cao, và có hiệu lực từ ngày 12/12. Đáng chú ý, để tạo sự chủ động trong thu hồi đất và giải quyết dứt điểm các vướng mắc trong giải phóng mặt bằng, Nghị quyết đưa ra cơ chế đặc thù cho phép Hội đồng nhân dân Thành phố quyết định mức bồi thường, hỗ trợ lên tới hai lần mức thông thường đối với các dự án cần triển khai ngay theo chỉ đạo của cấp có thẩm quyền. Chính sách này hướng tới tạo sự đồng thuận từ người dân ngay từ đầu, đồng thời ưu tiên bảo đảm an sinh xã hội cho các nhóm yếu thế như người cao tuổi, người nghèo, người khuyết tật khi phải di dời. Về cơ chế đầu tư và tài chính, Nghị quyết quy định Thành phố được phân cấp thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư và chấp thuận chủ trương đầu tư các dự án không phụ thuộc quy mô vốn thuộc thẩm quyền Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ, trừ các dự án sử dụng ngân sách Trung ương. Thành phố cũng được phép sử dụng kết dư ngân sách địa phương để triển khai dự án đầu tư công, với điều kiện phải bảo đảm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước. |





