Bộ trưởng Bộ Công thương: Không để thiếu hụt, đứt gãy nguồn cung than cho sản xuất điện
Ngày 3/3, Bộ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Hồng Diên đã chủ trì buổi làm việc với lãnh đạo các tập đoàn: Điện lực Việt Nam (EVN), Dầu khí Việt Nam (PVN), Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) và tổng công ty phát điện, sản xuất đạm cùng một số chủ đầu tư nhà máy nhiệt điện than về tình hình cấp than và nhập khẩu than cho sản xuất điện, đạm.
Tại buổi làm việc, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đánh giá cao sự nỗ lực của các đơn vị trong việc sản xuất, nhập khẩu và cung cấp than cho sản xuất điện, đạm thời gian qua, góp phần đảm bảo cung cấp đủ điện và đạm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và sinh hoạt của nhân dân; tiếp tục đóng góp nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước, nhất là trong bối cảnh các doanh nghiệp đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức hết sức dị biệt thời gian qua xuất phát từ những mâu thuẫn địa chính trị trên thế giới, khủng khoảng năng lượng dẫn đến giá nhiên liệu đầu vào của các ngành sản xuất tăng cao.
Trong thời gian tới, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên yêu cầu, trong mọi tình huống, các tập đoàn (TKV, EVN, PVN), các tổng công ty và chủ đầu tư các nhà máy điện, đạm phải bảo đảm đủ nguồn cung than cho sản xuất điện, đạm để phục vụ phát triển kinh tế đất nước và sinh hoạt của người dân; không được để thiếu hụt, đứt gãy nguồn cung than (kể cả việc thiếu hụt, đứt gãy cục bộ).
Bộ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Hồng Diên phát biểu tại cuộc họp. |
Lãnh đạo Bộ Công thương cũng đề nghị các bên liên quan thực hiện nghiêm túc các cam kết tại hợp đồng mua bán than cho sản xuất điện, đạm đã ký. Doanh nghiệp cung cấp than chịu trách nhiệm toàn diện nếu không cung cấp đủ than theo cam kết dẫn tới thiếu than cho sản xuất điện và đạm trong nước. Ngược lại, các doanh nghiệp sử dụng than cũng phải chịu trách nhiệm nếu không thực hiện đúng hợp đồng mua than.
Bên cạnh đó, các đơn vị chủ động, tích cực và đẩy mạnh các hoạt động hợp tác, tìm kiếm đối tác, bạn hàng xuất khẩu than trên thế giới, nhất là với các nước mà Việt Nam là thành viên trong các Hiệp định thương mại tự do và các nước đã ký kết các văn bản hợp tác với các bộ, ngành chức năng; trong đó, lưu ý chú trọng đến các thị trường xuât khẩu than tiềm năng (như Úc, Indonesia, Nam Phi, Lào…) mà Bộ Công thương đã tổ chức kết nối tại các diễn đàn giao thương và tại các kỳ họp liên quan.
Đồng thời, người đứng đầu Bộ Công thương cũng yêu cầu khẩn trương tổ chức nghiên cứu các cơ chế, chính sách của Lào liên quan đến hoạt động thương mại than và khảo sát thị trường than của Lào, các tuyến đường vận chuyển than về Việt Nam để bảo đảm tối ưu. Có phương án chuẩn bị hệ thống kho cảng chứa than tại Việt Nam ở vị trí phù hợp (nhất là trên địa bàn các tỉnh/thành phố có đường biên giới giáp Lào) để có thể tiếp nhận hiệu quả than nhập khẩu từ Lào.
Cùng với đó, các đơn vị thực hiện công tác nhập khẩu than cần chủ động xây dựng kế hoạch nhập khẩu than với lộ trình cụ thể để triển khai thực hiện; chuẩn bị tốt nguồn nhân lực, tài chính, cơ sở hạ tầng phục vụ công tác nhập khẩu than cho sản xuất điện, đạm trong nước.
Bộ trưởng yêu cầu TKV và Tổng Công ty Đông Bắc thực hiện hiệu quả các giải pháp nâng cao năng lực sản xuất, chế biến than để sản xuất tối đa các chủng loại than theo nhu cầu sử dụng của các hộ tiêu thụ, đặc biệt là các chủng loại than cho sản xuất điện. Khẩn trương tổ chức rà soát hệ thống kho cảng tại khu vực miền Trung và miền Nam để nghiên cứu đề xuất xây dựng các phương án, kho trung chuyển dự trữ than bảo đảm cung cấp đủ và ổn định cho các nhà máy nhiệt điện than.
Về kiến nghị của các doanh nghiệp, Bộ trưởng Bộ Công thương đã có ý kiến chỉ đạo cụ thể, yêu cầu tập trung tháo gỡ các vấn đề về vướng mắc giữa các doanh nghiệp cung cấp than với chủ đầu tư các nhà máy nhiệt điện, nhà máy đạm, trong đó nêu rõ nội dung cần thực hiện, tiến độ thực hiện và đơn vị chủ trì thực hiện.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cũng giao các cục/vụ thuộc Bộ Công thương nghiên cứu kỹ các kiến nghị, rà soát các quy định hiện hành, phát hiện, sửa đổi các bất cập và cần phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp triển khai đồng bộ, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm các giải pháp, kịp thời báo cáo cấp thẩm quyền xem xét, giải quyết.