Dấu ấn tiên phong của Đảng bộ Hà Nội trong phát triển công nghiệp văn hóa

Bài 1: Coi văn hóa là nguồn lực phát triển

Sự tâm huyết, quyết liệt của Đảng bộ, đảng viên và Nhân dân Hà Nội góp phần đưa vốn quý văn hóa của Hà Nội trở thành tư liệu sản xuất quan trọng, đóng góp vào sự phát triển chung của Thủ đô.
Thêm kỳ vọng về ngành công nghiệp văn hóa Thủ đô

“Hà Nội là địa phương đầu tiên trong cả nước ban hành nghị quyết về phát triển công nghiệp văn hóa. Không những thế, với sự nghiên cứu sâu sắc về tính đặc thù của Thủ đô, Hà Nội còn đề xuất thêm 1 lĩnh vực trong công nghiệp văn hóa so với yêu cầu của Chính phủ. Sự tâm huyết, quyết liệt của Đảng bộ, của đảng viên và Nhân dân Thủ đô đã góp phần đưa vốn quý văn hóa của Hà Nội trở thành tư liệu sản xuất quan trọng, đóng góp vào sự phát triển chung của Thủ đô...”, PGS. TS Nguyễn Chí Mỳ (Nguyên Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội) chia sẻ với phóng viên báo Tuổi trẻ Thủ đô.

Bài 1: Coi văn hóa là nguồn lực phát triển
PGS. TS Nguyễn Chí Mỳ (Nguyên Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội) chia sẻ với phóng viên báo Tuổi trẻ Thủ đô

Hà Nội rất giàu...

- Phóng viên: Thưa ông, với mong muốn để văn hóa thẩm thấu sâu hơn, lan tỏa mạnh mẽ hơn, nhiều ý kiến là các chuyên gia, nhà khoa học cho rằng, phải kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa giữ gìn bản sắc văn hóa với phát triển kinh tế, phát triển văn hóa đi đôi với phát triển văn hóa, trong đó văn hóa, con người vừa là mục tiêu, vừa là nền tảng, nguồn lực, động lực để phát triển Thủ đô. Nguyên là Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội, ông nhận định như thế nào về hướng đi này của Hà Nội?

- PGS.TS Nguyễn Chí Mỳ: Theo tôi, đây là hướng đi rất đúng và trúng của Hà Nội. Gắn bó nhiều năm với Thủ đô, tôi biết, Hà Nội rất giàu. Giàu có về mặt văn hóa, lịch sử, kiến trúc, ẩm thực... Có thể nói, Hà Nội có tiềm năng và tính khả thi cho sự phát triển của một số sản phẩm, dịch vụ công nghiệp nguồn lực văn hóa mạnh mẽ, đa dạng.

Dấu ấn tiên phong của Đảng bộ Hà Nội trong lãnh đạo phát triển công nghiệp văn hóa
Lãnh đạo Đảng và Nhà nước dự "Ngày hội Văn hóa vì hòa bình" nhân kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô

Thực tế, Hà Nội có hệ thống di sản, di tích lịch sử, văn hóa đồ sộ và lớn nhất cả nước với 5.922 di tích, trong đó có 2.396 di tích đã được xếp hạng là di tích quốc gia, di tích quốc gia đặc biệt, di sản thế giới; 1.793 di sản văn hóa phi vật thể được nhận diện, kiểm kê vào danh sách để bảo vệ, trong đó có 1.206 lễ hội; 215 tập quán mỹ tục, xã hội và tín ngưỡng; 175 nghề thủ cộng truyền thống; 106 di sản về tri thức dân gian; 79 nghệ thuật trình diễn dân gian; 14 di sản về ngữ văn dân gian; có 1350 làng nghề thủ công; 42 bảo tàng; 48 trường đại học; 18 nhà hát; 43 rạp chiếu phim.

Không những thế, thành phố còn lưu giữ dấu ấn của 36 phố phường, một trung tâm kinh tế văn

Hà Nội rất giàu. Giàu có về mặt văn hóa, lịch sử, kiến trúc, ẩm thực... Có thể nói, Hà Nội có tiềm năng và tính khả thi cho sự phát triển của một số sản phẩm, dịch vụ công nghiệp nguồn lực văn hóa mạnh mẽ, đa dạng.

hóa với những sản phẩm ẩm thực phong phú cùng với những dấu ấn kiến trúc thời Pháp thuộc.

Một thế mạnh khác của Hà Nội là dân số trẻ (trên 51,7%); nơi tập trung nhiều nhà khoa học đầu ngành, có số lượng giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ đang làm việc đông đảo tại Hà Nội, chiếm hơn 65% tổng số các nhà khoa học trong cả nước.

Dấu ấn tiên phong của Đảng bộ Hà Nội trong lãnh đạo phát triển công nghiệp văn hóa
Hà Nội sở hữu kho vàng về văn hóa

Hà Nội còn là nơi hội tụ nhiều nghệ nhân giỏi, thợ lành nghề, dân trí có trình độ tương đối cao, có đông đảo trong cộng đồng dân cư, năng động trong hoạt động sáng tạo, có đội ngũ văn nghệ sĩ với uy tín cao trong nước và quốc tế.

Quan trọng hơn cả, Hà Nội là Thủ đô, trái tim của cả nước, đầu não chính trị hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ, trung tâm kinh tế và giao dịch của cả nước. Hà Nội có điều kiện để quảng bá hình ảnh của Thủ đô và cả nước ra thế giới.

Với lịch sử ngàn năm văn hiến, là Thủ đô anh hùng, thành phố của lương tri và phẩm giá con người, "Thành phố vì hòa bình", "Thành phố sáng tạo",... Hà Nội có vị thế địa - chính trị, địa - kinh tế, địa - văn hóa, tạo cho Hà Nội có điều kiện và nguồn lực lớn để phát triển. Đặc biệt, Hà Nội có nhiều sản phẩm du lịch văn hóa, ẩm thực phong phú đã có tiếng vang và hấp dẫn người dân trong nước mà còn hấp dẫn du khách quốc tế.

- Phóng viên: Tuy nhiên, trong lịch sử lâu dài, nguồn lực văn hóa của Hà Nội dường như chưa được phát huy một cách hiệu quả. Thậm chí, đôi lúc bị lãng quên. Làm thế nào để khắc phục tình trạng này, thưa ông?

- PGS. TS Nguyễn Chí Mỳ: Để các sáng tạo văn hóa trong du lịch văn hóa, ẩm thực, nghệ thuật biểu diễn thành sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa phải chuyển các thành quả sáng tạo văn hóa thành hàng hóa; Từ đó, thỏa mãn nhu cầu văn hóa đa dạng, phong phú của công chúng. Điều này cần đến quá trình sản xuất, phổ biến, tiêu dùng theo phương thức công nghiệp hóa.

Việc này yêu cầu phải có cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của thành phố. Từ đó trên địa bàn mỗi quận, huyện, thị xã, xã phường, căn cứ vào thế mạnh, lợi thế của địa phương và truyền thống của mình để lựa chọn sản phẩm công nghiệp văn hóa cần thiết, ưu tiên phát triển.

Ví dụ, căn cứ vào tiềm năng, thế mạnh của địa phương, có thể lựa chọn sản phẩm du lịch tham quan di tích lịch sử văn hóa, hay du lịch tâm linh, du lịch trải nghiệm hoặc du lịch lễ hội truyền thống hay lễ hội hiện đại (Du lịch theo dấu chân Bác, du lịch lễ hội chùa Hương hay chùa Thầy, chùa Tây Phương, chùa Đậu, đền Và, quán Giá, làng Chuông, người Dao Ba Vì, thánh Tản Viên, phủ Tây Hồ, đền Hai Bà Trưng, đền Sóc... )

Về ẩm thực, sản phẩm dịch vụ lựa chọn của địa phương phải dựa trên lợi thế và phải xem thế mạnh, sự nổi tiếng, hấp dẫn, độc đáo của địa phương mình là sản phẩm, dịch vụ gì cần ưu tiên. Ví dụ như rau sắng chùa Hương, giò chả Ước Lễ, bánh giầy quán Gánh, bánh giò Lại Thượng, chè lam Thạch Xá, bánh tôm Hồ Tây, bánh trung thu cổ truyền Thụy Khuê, phở Thìn bờ hồ, phở Lý Quốc Sư (nói chung là phở Hà Nội), bánh mì Hà Nội, bún chả Hà Nội, chả cả Lã Vọng...Nghệ thuật biểu diễn có thể là rối nước, ca trù, hầu đồng - hát văn, xẩm đường phố,...

Mấu chốt là phải biến các thành quả sáng tạo văn hóa này thành hàng hóa, thành sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa theo phương thức công nghiệp hóa, tin học hóa, thương phẩm hóa đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần phong phú đa dạng của xã hội.

Nghị quyết 09 soi đường

- Phóng viên: Là một nhà khoa học, xin ông khái quát về khái niệm công nghiệp văn hóa?

- PGS. TS Nguyễn Chí Mỳ: Thực ra, công nghiệp văn hóa được thế giới đề cập tới từ nửa đầu thế kỉ XX như ở Mỹ với tên gọi là công nghiệp giải trí. Vào cuối thế kỉ XX, khái niệm công nghiệp văn hóa được dùng ở nhiều nước, ngoài Mỹ, còn có Anh, Phần Lan, Tây Ban Nha, Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia, New Zealand, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Canada, Trung Quốc,... Đến tháng 4/1998, khái niệm công nghiệp văn hóa chính thức được công bố tại Hội nghị thượng đỉnh về hoạt động văn hóa với đại biểu của gần 200 quốc gia tại Stockholm (Thụy Điển).

Dấu ấn tiên phong của Đảng bộ Hà Nội trong lãnh đạo phát triển công nghiệp văn hóa
Lễ hội đền Hai Bà Trưng được tổ chức bài bản, quy mô

Tuy nhiên, sau đó khái niệm công nghiệp văn hóa cũng như sự phân loại các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp văn hóa còn có những ý kiến khác nhau tùy góc độ tiếp cận của các nhà khoa học, các nhà quản lý; vào điều kiện kinh tế - xã hội và đặc thù văn hóa của mỗi quốc gia. Song, nhìn chung đều có một số điểm thống nhất. Nói tới công nghiệp văn hóa là nói tới bản chất sáng tạo và nhân văn sâu sắc của văn hóa được sản xuất theo phương pháp công nghiệp hóa đáp ứng nhu cầu đông đảo của công chứng. Con người với sự sáng tạo, đa dạng, phong phú trong văn hóa và năng động trong kinh doanh kết hợp với tiền bộ của khoa học và công nghệ hiện đại sẽ tạo ra các sản phẩm có giá trị cả về văn hóa kinh tế. Nói cách khác, công nghiệp văn hóa là dựa trên sự sáng tạo văn hóa và ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại sản xuất ra sản phẩm, hàng hóa văn hóa phục vụ đông đảo công chúng. Sản phẩm công nghiệp văn hóa là sự tổng hợp giá trị văn hóa và giá trị kinh tế có sức lan tỏa không bị giới hạn bởi các biên giới quốc gia.

Có thể quan niệm công nghiệp văn hóa là công nghiệp sáng tạo, sản xuất, tái sản xuất, phổ biến, tiêu dùng các sản phẩm và các dịch vụ văn hóa bằng phương thức công nghiệp hóa, tin học hóa, thương phẩm hóa, nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng của xã hội và các hoạt động đó được bảo vệ bởi bản quyền. Nói cách khác, công nghiệp văn hóa được áp dụng vào "các ngành công nghiệp kết hợp sự sáng tạo, sản xuất và khai thác các nội dung có bản chất văn hóa, các nội dung này được bảo vệ bởi luật bản quyền và thể hiện được đa dạng sản phẩm hay dịch vụ. Hoặc công nghiệp văn hóa là ngành công nghiệp sáng tạo biến các thành quả văn hóa thành hàng hóa thỏa mãn nhu cầu đa dạng của công chúng".

UNESCO cũng xác định công nghiệp văn hóa có 11 ngành: Phim ảnh, video, in ấn xuất bản, âm nhạc, phát thanh truyền hình, nghệ thuật biểu diễn, quảng cáo, kiến trúc, mỹ thuật và thủ công mỹ nghệ, thiết kế, công nghệ kỹ thuật số và phần mềm hiện đại. Với quan niệm công nghiệp văn hóa và xác định các ngành công nghiệp văn hóa như trên cho thấy công nghiệp văn hóa đã và đang trở thành ngành công nghiệp trụ cột trong tăng trưởng kinh tế, trong phát triển bền vững, tác động lan tỏa mạnh mẽ đến các ngành, các lĩnh vực khác. Đồng thời các sản phẩm của công nghiệp văn hóa là những sản phẩm có giá trị trong tính độc đáo của mỗi dân tộc, quốc gia thực hiện cạnh tranh hóa trong hội nhập quốc tế.

Dấu ấn tiên phong của Đảng bộ Hà Nội trong lãnh đạo phát triển công nghiệp văn hóa
Không gian nghệ thuật trong khuôn khổ lễ hội

- Phóng viên: Như vậy, khái niệm công nghiệp văn hóa không còn xa lạ gì đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Theo Bản đồ toàn cầu đầu tiên về Công nghiệp văn hóa và sáng tạo của UNESCO năm 2015 công bố năm 2017, thì công nghiệp văn hóa và sáng tạo (Cultural and Creative Industries - CCIs) có tổng doanh thu lên đến 2.250 nghìn tỷ USD và tạo công ăn việc làm cho 29,5 triệu lao động trên toàn cầu với gần 20% thành phần lao động ở độ tuổi từ 15 đến 29. Đối với Việt Nam, ngành công nghiệp văn hóa khởi sinh và phát triển như thế nào, thưa ông?

- PGS. TS Nguyễn Chí Mỳ: Ý thức về tầm quan trọng của văn hóa và công nghiệp văn hóa, Đảng ta ngày càng nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn sức mạnh mềm của văn hóa. Nghị quyết TW 05, khóa VIII (1998) về "Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", Đảng ta đã xác định văn hóa thuộc lĩnh vực sản xuất các giá trị tinh thần (chứ không phải là phi sản xuất như quan niệm thông thường lúc đó).

Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là nguồn lực, vừa là nền tảng tinh thần của xã hội. Nghị quyết cũng đã chỉ rõ "phát triển kinh tế trong văn hóa", "phát triển văn hóa trong kinh tế", "xây dựng cơ chế sản xuất, kinh doanh, dịch vụ văn hóa trong kinh tế thị trường".

Tiếp đến, trong kết luận Hội nghị Trung ương 10, khóa IX năm 2004 về văn hóa, đã mở rộng các hoạt động văn hóa không chỉ có tính chất phục vụ mà còn mang tính chất kinh doanh với sự tham gia của các doanh nghiệp văn hóa. Năm 2009, Chính phủ xây dựng "Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020", đã đề cập cần phải phát triển công nghiệp văn hóa ở nước ta. Chiến lược khẳng định: Phát triển công nghiệp văn hóa đang là xu thế lớn và quan trọng trong chính sách văn hóa của các nước trên thế giới.

Đến Hội nghị Trung ương 09, khóa XI năm 2014, với Nghị quyết số 33/NQ-TW "Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, phát triển bền vững đất nước", một lần nữa tiếp tục khẳng định vai trò của công nghiệp văn hóa và yêu cầu phát triển văn hóa đi đôi với hoàn thiện thị trường văn hóa; xem phát triển công nghiệp văn hóa là nhiệm vụ thứ năm trong sáu nhiệm vụ vừa cơ bản lâu dài, vừa cấp thiết.

Nghị quyết nêu rõ, phát triển công nghiệp văn hóa, có cơ chế khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phầm công nghiệp văn hóa; tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp văn hóa phát triển; đổi mới hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để xây dựng, phát triển thị trường văn hóa và công nghiệp văn hóa.

Để cụ thể hóa Nghị quyết 33, ngày 8/9/2016, Chính phủ đã có Quyết định số 1755 phê duyệt "chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030". Theo đó, chiến lược đã khẳng định công nghiệp văn hóa là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi nhằm thu hút tối đa nguồn lực từ các doanh nghiệp và xã hội để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa dựa trên sự sáng tạo, khoa học, công nghệ và bản quyền trí tuệ, khai thác tối đa các yếu tố kinh tế của các giá trị văn hóa. Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, phát huy được lợi thế của Việt Nam, phù hợp với các quy luật cơ bản của kinh tế thị trường được đặt trong tổng thể kinh tế - xã hội, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ giữa các ngành, các khâu sáng tạo, sản xuất, phân phối, phổ biến và tiêu dùng. Phát triển công nghiệp văn hóa gắn liền với việc quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, góp phần phát huy bản sắc dân tộc trong quá trình giao lưu, hội nhập và hợp tác quốc tế.

Chiến lược cũng đã xác định phát triển 12 ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam bao gồm: (1) Quảng cáo; (2) Kiến trúc, (3) Phần mềm và các trò chơi giải trí, (4) Thủ công mỹ nghệ, (5) Thiết kế, (6) Điện ảnh, (7) Xuất bản, (8) Thời trang, (9) Nghệ thuật biểu diễn, (10) Mỹ thuật nhiếp ảnh và triển lãm, (11) Truyền hình và phát thanh, (12) Du lịch văn hóa.

Dấu ấn tiên phong của Đảng bộ Hà Nội trong lãnh đạo phát triển công nghiệp văn hóa
Chủ tịch UBND TP Hà Nội Trần Sỹ Thanh và các đại biểu tham quan gian hàng phở truyền thống trong khuôn khổ Lễ hội Ẩm thực Hà Nội 2024

- Phóng viên: Hiện nay, nhiều địa phương đều xác định đưa công nghiệp văn hóa trở thành yếu tố then chốt cho sự phát triển lâu dài. Theo ông, điều này bắt nguồn từ đâu?

- PGS. TS Nguyễn Chí Mỳ: Thực hiện Nghị quyết số 33, Hội nghị Trung ương 09, khóa XI, Thành ủy Hà Nội đã xây dựng chương trình số 04-CTr/TU của Thành ủy (khóa XVI) về "Phát triển văn hóa - xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Thủ đô, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh, giai đoạn 2016-2020", trong đó đã đề cập tới phát triển công nghiệp văn hóa của Thủ đô; đã có Chương trình số 06 về "Phát triển văn hóa, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh, giai đoạn 2021-2025".

Ban chỉ đạo chương trình đã xây dựng đề án "Phát triển công nghiệp văn hóa Thủ đô giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045". Đề án đã phân tích vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công nghiệp văn hóa Thủ đô, đánh giá các yếu tố tác động đến phát triển công nghiệp văn hóa Thủ đô và thực trạng phát triển các lĩnh vực của công nghiệp văn hóa Thủ đô.

(Còn nữa)

Vũ Cường - Thành Trung
Phiên bản di động