Chủng SARS-CoV-2 ở Ấn Độ nguy hiểm ra sao?
Hải Dương: 2.401 mẫu test nhanh âm tính SARS-CoV-2 7 F1 ở Thường Tín dương tính với SARS-CoV-2 |
Dù rằng chưa có nhiều nghiên cứu trực tiếp trên chủng virus này nhưng dựa vào những vị trí đột biến khá tương đồng với các biến thể khác được tìm thấy ở Anh, ở Brazil, ở Nam Phi hoặc ở California, các chuyên gia tiên đoán rằng chúng có khả năng lan truyền nhanh hơn và làm giảm tác dụng của các kháng thể kháng virus được tạo ra trong người hồi phục sau khi nhiễm bệnh Covid-19 hoặc sau khi chích vaccine Covid-19. Trong các đột biến trên chủng B.1.617 thì 3 đột biến sau đây trên protein S được “quan ngại” nhiều đó là:
E484Q. Đột biến ở vị trí 484, thay thế amino axit glutamic thành glutamine. Đột biến này khá giống với đột biến E484K trên chủng Nam Phi, thay thế amino axit glutamic thành lysine. Đột biến này được dự đoán có thể tạo ra khả năng liên kết mạnh hơn của virus với thụ thể hACE2 của con người (tăng khả năng lây nhiễm), cũng như khả năng trốn tránh hệ thống miễn dịch của vật chủ tốt hơn.
L452R. Đột biến ở vị trí 452, được tìm thấy trước đó trên chủng biến thể ở California, thay thế leucine thành arginine, cũng tạo ra ái lực mạnh hơn của protein đột biến đối với thụ thể ACE2 và giảm khả năng nhận biết của hệ thống miễn dịch.
P681R. Đột biến ở vị trí 681 làm thay thế proline thành arginine. Điểm đột biến này nằm ở vị trí cắt của enzyme furin trên protein S, quá trình cắt này giúp virus xâm nhập thành công vào bên trong tế bào. Do vậy, đột biến này có thể giúp tăng khả năng lây nhiễm của virus.
Một nghiên cứu gần đây (đăng ngày 5 tháng 5 trên BioRxiv) của nhóm các nhà khoa học của Đức, sử dụng protein S chứa 8 đột biến của chủng Ấn Độ (có chứa 3 đột biến kể trên) để nghiên cứu trong phòng thí nghiệm. Họ thấy rằng so với chủng ban đầu, biến thể Ấn Độ với các đột biến này có thể xâm nhập tốt hơn vào 2 dòng tế bào (tế bào ruột và tế bào phổi).
Ngoài ra, họ còn cho thấy biến thể này có khả năng kháng lại hoàn toàn Bamlanivimab, một loại kháng thể đơn dòng (monoclonal antibody) đang được sử dụng để điều trị bệnh COVID-19. Sự giảm khả năng “trung hòa” virus cũng được thấy ở kháng thể tạo ra từ người đã nhiễm bệnh (bởi chủng cũ) hoặc những người đã được chích vaccine (của Pfizer-BioNTech) tuy nhiên sự giảm này là không quá nhiều.
Một nhóm nghiên cứu khác ở Ấn Độ cũng có công bô một nghiên cứu (đăng ngày 5 tháng 5 trên BioRxiv) sử dụng mô hình chuột đồng (Syrian golden hamsters) cho thấy rằng virus chủng B.1.617 có thể gây bệnh nặng hơn dựa trên các chỉ số về cân nặng sau khi nhiễm virus, số lượng virus trong cơ thể và hình nhuộm sinh thiết mô phổi.
Do vậy, việc hạn chế dịch phát triển mạnh trong lúc này ở Việt Nam là hết sức cần thiết và việc chích ngừa vaccine cũng nên được đẩy mạnh hơn vì dù chủng mới có làm giảm tác dụng của vaccine phần nào nhưng cũng có thể giảm được tỉ lệ người mắc bệnh nặng và tử vong từ đó giảm được gánh nặng của ngành y tế nếu dịch xảy ra. Hiện nay, các hãng bào chế vaccine Covid-19 cũng đang bắt đầu tạo ra những vaccine có những thay đổi nhỏ trên protein S để phù hợp với sự thay đổi của chủng virus mới.
TS. Nguyễn Hồng Vũ
Viện Nghiên cứu ung thư, City of Hope, California, Mỹ