Bài 2: Cơ chế, thủ tục “trói chân” năng lượng sạch

đừng để lãng phí nguồn điện sạch

BÀI 2: CƠ CHẾ, THỦ TỤC “TRÓI CHÂN” ĐIỆN SẠCH

Việt Nam đang ở giai đoạn quyết định của quá trình chuyển dịch năng lượng, với mục tiêu phát triển kinh tế xanh và cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Tuy nhiên, trái với kỳ vọng, sự bứt phá của năng lượng tái tạo đang chậm lại một cách đáng lo ngại. Những dự án điện mặt trời, điện gió từng làm nên kỳ tích trong giai đoạn 2018-2021 nay lại đứng trước nguy cơ không thể hoạt động vì cơ chế, thủ tục thiếu nhất quán và không rõ ràng, khiến các nhà đầu tư loay hoay mãi vẫn chưa tìm được lối ra.

I. LAO ĐAO VÌ “ĐIỂM NGHẼN” CƠ CHẾ, THỦ TỤC

Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới với 2 mục tiêu lớn đó là trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 và đạt Net Zero vào năm 2050. Để hiện thực hóa điều đó, nền kinh tế phải chuyển đổi mạnh mẽ theo hướng xanh, sạch, sáng tạo và số hóa với mục tiêu bền vững.

Tuy nhiên, hành lang pháp lý cho năng lượng tái tạo tại Việt Nam vẫn chỉ là những mảnh ghép rời rạc, còn thiếu nhất quán và không đáp ứng được tốc độ phát triển cũng như độ phức tạp ngày càng gia tăng của các loại hình điện mới. Tình trạng này đang là điểm nghẽn kìm hãm dòng vốn, trì hoãn hàng loạt dự án, và làm gia tăng rủi ro chính sách đối với nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Thực tế, hàng loạt dự án điện năng lượng tái tạo hiện vẫn “đắp chiếu” không phải vì thiếu vốn hay công nghệ, mà vì chưa được gỡ bỏ những rào cản mang tính quản lý, vận hành và điều phối hạ tầng. Đơn cử, tình trạng các dự án điện gió như ở Quảng Trị bị đình trệ do vướng giải phóng mặt bằng, hay hàng nghìn MW điện mặt trời chưa được ký hợp đồng mua bán, không thể hòa lưới do tắc nghẽn truyền tải, cho thấy một nghịch lý: Việt Nam không thiếu gió, không thiếu nắng, không thiếu nhà đầu tư, mà đang thiếu một tư duy điều hành theo hướng thích ứng và linh hoạt với chuyển động mới của thị trường năng lượng toàn cầu.

Hành lang pháp lý cho năng lượng tái tạo tại Việt Nam vẫn chỉ là những mảnh ghép rời rạc, còn thiếu nhất quán và không đáp ứng được tốc độ phát triển cũng như độ phức tạp ngày càng gia tăng của các loại hình điện mới.

Bài 2: Cơ chế, thủ tục “trói chân” năng lượng sạch

Chúng ta đang áp dụng những công cụ quản lý cũ để vận hành một hệ thống năng lượng mới. Năng lượng tái tạo có đặc thù là phân tán, biến động và cần tính kết nối cao, trong khi hệ thống điện quốc gia lại được thiết kế theo hướng tập trung, cứng nhắc và đơn tuyến. Cơ chế điều tiết, phân bổ, đấu nối… vẫn nặng tính thủ tục, khiến không ít doanh nghiệp đầu tư trước nhưng mãi vẫn “xếp hàng” chờ được vận hành; có nhà đầu tư chờ đến khánh kiệt, không thể tiếp tục dự án đành phải bán dự án cho nước ngoài.

Nhiều nhà đầu tư cho biết họ sẵn sàng tiên phong thử nghiệm mô hình mới như điện mặt trời mái nhà bán trực tiếp, song chưa có hành lang pháp lý rõ ràng, nay thế này mai lại thế khác. Điều này không chỉ gây lãng phí nguồn lực xã hội, mà còn làm nản lòng những nhà đầu tư tư nhân, vốn là lực đẩy chủ yếu cho năng lượng xanh ở Việt Nam.

Nhà đầu tư cho rằng, chính sách giá điện chuyển tiếp, quy chuẩn kỹ thuật, các mô hình hợp đồng mua bán điện minh bạch… đều là những phần việc cấp thiết. Nhưng điều quan trọng hơn cả là cần có một sự chuyển biến trong tư duy quản trị từ kiểm soát sang kiến tạo, từ chờ đợi sự an toàn tuyệt đối sang thử nghiệm có kiểm soát, như nhiều lần lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã nhấn mạnh khi bàn về việc cải cách thể chế.

Các doanh nghiệp – họ bỏ tiền, thời gian và công sức của mình ra đầu tư, do đo họ muốn thị trường năng lượng cần được coi là một không gian đổi mới, nơi có thể áp dụng những cơ chế linh hoạt, thử nghiệm mô hình mới, để từ đó tạo tiền đề cho phát triển bền vững. Không thể kỳ vọng các dự án năng lượng tái tạo phát triển hiệu quả nếu vẫn bị chi phối bởi tư duy “trên giao, dưới chờ” hay đợi quy hoạch xong mới làm, hoặc nay đồng ý mai lại thôi.

Bài 2: Cơ chế, thủ tục “trói chân” năng lượng sạch

Ông Bùi Thanh Minh, Phó Giám đốc Chuyên môn, Văn phòng Ban Nghiên cứu Phát triển Kinh tế tư nhân (Ban IV) cho rằng, chuyển đổi xanh không còn là lựa chọn, mà là điều kiện sống còn để duy trì năng lực cạnh tranh trong bối cảnh các thị trường lớn siết chặt tiêu chuẩn xanh.

Trong bối cảnh quốc tế đang chuyển mình mạnh mẽ vì mục tiêu giảm phát thải, nếu Việt Nam không nhanh chân, chúng ta không chỉ tụt lại về công nghệ mà còn đánh mất cơ hội tiếp cận các nguồn tài chính xanh, các chuỗi cung ứng bền vững trong tương lai.

Ông Bùi Thanh Minh, Phó Giám đốc Chuyên môn, Văn phòng Ban Nghiên cứu Phát triển Kinh tế tư nhân (Ban IV) cho rằng, chuyển đổi xanh không còn là lựa chọn, mà là điều kiện sống còn để duy trì năng lực cạnh tranh trong bối cảnh các thị trường lớn siết chặt tiêu chuẩn xanh. Các định hướng lớn của Đảng và Nhà nước hiện nay, thể hiện qua “Bộ tứ trụ cột” gồm các Nghị quyết 57, 59, 66 và 68, đang mở ra công cuộc “Đổi mới 2.0”, tạo nền tảng chính sách vững chắc cho chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Đây là thời điểm chín muồi để Việt Nam tái định vị chính sách năng lượng, chuyển từ phụ thuộc nhiên liệu hóa thạch sang phát triển năng lượng xanh, với khu vực tư nhân giữ vai trò chủ lực.

Theo ông Bùi Thanh Minh, nhu cầu năng lượng tái tạo là rất cần thiết hiện nay và nhận được sự quan tâm. Năm 2025 là năm bản lề để hoàn thành Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, đồng thời chuẩn bị các điều kiện để bước vào giai đoạn phát triển mới. Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng GDP đạt từ 8% trở lên, làm nền tảng hướng tới tốc độ 2 con số trong giai đoạn 2026-2030. Cùng với đó, Nghị quyết 192/2024/QH15 của Quốc hội cũng đề ra các giải pháp trọng tâm là sớm ban hành Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi), tháo gỡ khó khăn cho các dự án năng lượng tái tạo, thúc đẩy chuyển đổi xanh và đào tạo nhân lực chất lượng cao.

Ông Minh phân tích, với giả định hệ số đàn hồi điện là 1,5, nếu GDP tăng 8% thì nhu cầu điện có thể tăng tới 12%. Điều này đồng nghĩa hệ thống phải bổ sung khoảng 2.200-2.500MW công suất mới chỉ trong năm 2025, tạo áp lực lớn cho hạ tầng nguồn và lưới điện quốc gia. Việt Nam không chỉ cần bổ sung nhanh công suất điện mà còn phải tái cấu trúc mô hình cung cầu năng lượng theo hướng bền vững; ưu tiên hiện nay là nâng cao hiệu quả sử dụng điện, giảm hệ số đàn hồi điện/GDP và hoàn thiện cơ chế khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo.

Mặt khác, trong bối cảnh mục tiêu tăng trưởng GDP 2 con số giai đoạn 2026-2030, nhu cầu điện dự báo sẽ tăng mạnh. Đồng thời, để thực hiện các cam kết khí hậu, Việt Nam buộc phải giảm tỷ trọng điện than, gia tăng sản lượng điện từ nguồn tái tạo và đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi xanh. Do đó, để thực hiện mục tiêu kép và triển khai hiệu quả các chủ trương của Đảng, Việt Nam cần xây dựng một khung chính sách phát triển năng lượng tái tạo đồng bộ, khả thi, đi kèm lộ trình rõ ràng, phân định trách nhiệm các bên liên quan và hệ thống đánh giá hiệu suất (KPIs) minh bạch.

“Nghị quyết 57 và 68 đã nhấn mạnh vai trò trọng tâm của năng lượng mới, sạch và khu vực tư nhân. Đòi hỏi đặt ra là phải có chính sách nhất quán, bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư và tạo môi trường pháp lý ổn định. Song song đó, cần ưu tiên thu hút đầu tư tư nhân vào hạ tầng năng lượng tái tạo, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận tín dụng xanh, phát triển theo tiêu chuẩn ESG (môi trường - xã hội - quản trị doanh nghiệp), nâng cao năng lực và đào tạo nhân lực cho nền kinh tế carbon thấp”, ông Minh chia sẻ.

"Các khung giá điện tái tạo chưa quá thu hút để các nhà đầu tư thức đẩy mạnh việc triển khai thực hiện, đặc biệt là các dự án điện mặt trời. Do đó, cần xem xét điều chỉnh để phù hợp với thực trạng các chi phí doanh nghiệp phải bỏ ra để đầu tư dự án".

Ông Phạm Lê Quang, Phó Tổng Giám đốc Công ty BCG ENERGY

Bài 2: Cơ chế, thủ tục “trói chân” năng lượng sạch

Tính từ năm 2020 đến nay, sau 5 năm, Việt Nam chưa có các dự án năng lượng tái tạo được triển khai mới, do ảnh hưởng các quy chế, quy định ban hành chậm như Quy hoạch điện quốc gia, cơ chế giá.

Ông Phạm Lê Quang, Phó Tổng Giám đốc Công ty BCG ENERGY cho rằng, Quy hoạch điện 8 và Quy hoạch điện 8 điều chỉnh là quy hoạch điện quốc gia đầu tiên thực hiện theo Luật Quy hoạch (các quy hoạch giai đoạn trước được thực hiện theo Luật Điện lực), dẫn đến thời gian kéo dài để đồng bộ cùng quy hoạch tỉnh. Do đó, cần xem xét cơ chế linh hoạt, phân quyền điều chỉnh quy hoạch và kế hoạch thực hiện để có thể kịp thời thay đổi theo thực tiễn đầu tư cũng như nhu cầu gia tăng phụ tải từng khu vực, miền.

Về cơ chế giá, ông Quang cho biết, đến năm 2024, Bộ Công thương mới có các hướng dẫn cho việc xây dựng khung giá, tính toán giá điện và hợp đồng mẫu cho các dự án năng lượng tái tạo mới, và tiếp tục ban hành khung giá cho các dự án năng lượng tái tạo mới trong năm 2025. Song, các khung giá này cũng chưa quá thu hút để các nhà đầu tư thức đẩy mạnh việc triển khai thực hiện, đặc biệt là các dự án điện mặt trời, điện gió. Do đó, cần xem xét điều chỉnh để phù hợp với thực trạng các chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để đầu tư dự án.

“Các dự án năng lượng tái tạo không quá phức tạp như các nguồn năng lượng truyền thống như nhiệt điện, thuỷ điện… nên có thể xem xét ban hành giá đơn giá áp dụng hằng năm hoặc theo chu kỳ để các dự án có thể áp dụng luôn, không phải mất thêm thời gian và nguồn lực để thực hiện đàm phán giá điện”, ông Quang chia sẻ.

Nếu tiếp tục yêu cầu đàm phán giá điện, ông Quang kiến nghị điều chỉnh các quy định, hướng dẫn để có cơ sở tính đúng, tính đủ các chi phí hợp lệ của nhà đầu tư trong quá trình phát triển dự án, đền bù và giải phóng mặt bằng… Ngoài ra cũng cần xem xét đảm bảo trượt giá và chênh lệch tỷ giá (đặc thù các dự án năng lượng tái tạo có tỷ trọng thiết bị nhập khẩu lớn).

II. ĐỪNG ĐỂ ĐIỆN SẠCH “TẮT THỞ”

Có thể nói, thời gian qua, Trung ương, Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt tháo gỡ vướng mắc cho các dự án năng lượng tái tạo, và mặc dù Bộ Công thương cũng đã ban hành khung giá cho dự án điện gió, điện mặt trời chuyển tiếp, hối thúc các bên đàm phán giá điện, ký kết hợp đồng mua bán điện nhưng việc đàm phán đến nay vẫn bế tắc do nhiều nguyên nhân. Trong khi đó, hàng trăm nghìn tỷ đồng được các doanh nghiệp đổ vào đầu tư cho điện sạch lại đang bị lãng phí khi nằm đắp chiếu, nằm phơi nắng phơi sương sau một thời gian được khuyến khích đầu tư.

Mới đây, nhiều nhà đầu tư nước ngoài đến từ nhiều quốc gia… và cả nhà đầu tư trong nước của 27 nhà máy điện gió, điện mặt trời tiếp tục có đơn kiến nghị về xử lý đối với hơn 170 dự án năng lượng tái tạo đã vận hành thương mại kịp thời hạn FIT nhưng hiện gặp nhiều vướng mắc về thanh toán.

Câu chuyện xuất phát từ Kết luận số 1027/KL-TTCP của Thanh tra Chính phủ liên quan đến các dự án năng lượng tái tạo là điện mặt trời và điện gió có ngày vận hành thương mại (COD), nhưng chưa có văn bản chấp thuận kết quả kiểm tra nghiệm thu của cơ quan chức năng (CCA) tại thời điểm COD cũng như tại trong thời gian được hưởng các mức giá mua điện ưu đãi theo Quyết định 17/2019/QĐ-TTg (giá FIT1) và Quyết định 13/2020/QĐ-TTg (giá FIT2).

Các kết luận cho rằng, việc không có văn bản CCA tại thời điểm dự án năng lượng tái tạo COD và được trả tiền từ phía Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã gây ra thiệt hại cho Nhà nước, ở đây cụ thể cho EVN - đơn vị 100% vốn Nhà nước.

Để khắc phục các tồn tại mà kết luận thanh tra đưa ra, Bộ trưởng Bộ Công thương đã đề xuất, các dự án đang được hưởng giá FIT có vi phạm theo kết luận của cơ quan có thẩm quyền do không đáp ứng đầy đủ các điều kiện được hưởng giá FIT thì không được hưởng giá FIT ưu đãi, mà phải xác định lại giá mua bán điện theo quy định; thu hồi (hồi tố) lại các khoản giá FIT ưu đãi đã được hưởng không đúng thông qua bù trừ thanh toán tiền mua điện. Theo báo cáo của Bộ Công thương, có 173 nhà máy/phần nhà máy điện mặt trời, điện gió nối lưới gặp tình huống này.

Việc các nhà máy điện mặt trời đã COD phải đối mặt với thực tế sẽ không còn được hưởng các mức giá bán điện như đang hưởng là 9,35 UScent/kWh của FIT1 hay 7,09 UScent/kWh của FIT2 để xuống hưởng các mức thấp hơn, thậm chí là không quá giá trần 1.184,9 đồng/kWh theo Quyết định số 21/QĐ-BCT của Bộ Công thương ban hành đầu năm 2023 cho các dự án chuyển tiếp đã khiến các doanh nghiệp rất hoảng hốt.

Các nhà đầu tư phản ánh việc họ đang bị tạm giữ một phần thanh toán tiền điện là không có căn cứ. Cụ thể, các nhà đầu tư cho rằng, các dự án đã hoàn thành và vận hành thương mại theo đúng quy định pháp luật tại thời điểm hoàn thành. Theo đó, tại thời điểm các dự án này được chấp thuận COD, các quy định pháp luật không yêu cầu có văn bản CCA là điều kiện để được chấp thuận COD.

“Không có cơ sở pháp lý nào để tạm giữ lại một phần tiền mua bán điện, áp dụng biểu giá tạm thời trái với biểu giá đã thỏa thuận trước đó hay ép buộc nhà đầu tư ký sửa đổi hợp đồng mua bán điện”, các nhà đầu tư cho biết và thêm rằng, doanh thu từ việc bán điện là nguồn giúp các họ duy trì hoạt động của các nhà máy điện, hoàn thành nghĩa vụ thuế đối với các cơ quan Nhà nước, thanh toán đúng hạn nợ gốc và lãi vay cho các ngân hàng, đồng thời chi trả tiền lương và phúc lợi cho các nhà thầu và người lao động.

Bài 2: Cơ chế, thủ tục “trói chân” năng lượng sạch

Hàng trăm nghìn tỷ đồng được các doanh nghiệp đổ vào đầu tư cho điện sạch lại đang bị lãng phí khi nằm đắp chiếu, nằm phơi nắng phơi sương sau một thời gian được khuyến khích đầu tư.

Có thể thấy, tác động tài chính của tình trạng này là rất nghiêm trọng, với một số dự án đã và đang đối mặt với việc phải vi phạm nghĩa vụ trả nợ với các tổ chức cho vay trong nước và quốc tế. Nếu sự việc này tiếp tục hoặc xấu đi, nó có thể đe dọa sự ổn định của thị trường tài chính trong nước và làm suy giảm niềm tin vào khung pháp lý của Việt Nam.

Các nhà đầu tư cho rằng, vấn đề mà họ đang gặp phải như bị giữ lại một phần thanh toán tiền điện, đề xuất nhằm sửa đổi hồi tố ngày COD và điều kiện hưởng giá FIT là không thỏa đáng.

Trong khi đó, một trong những nhiệm vụ, giải pháp được nêu tại khoản 2.2 của Mục III Nghị Quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân nêu: “… Có cơ chế đặc thù để xử lý các dự án, hợp đồng tồn đọng kéo dài nhiều năm, gây thất thoát, lãng phí nguồn lực xã hội, cản trở quá trình phát triển của các doanh nghiệp tư nhân, song song với việc xác định vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan theo quy định của pháp luật; chấm dứt tình trạng cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo các hợp đồng đã ký với các doanh nghiệp tư nhân”. Khoản 2.3 của Mục III trong Nghị quyết 68 cũng nêu: Không hồi tố các quy định pháp luật để xử lý bất lợi cho doanh nghiệp.

Chia sẻ với phóng viên, một nhà đầu tư cho biết, chiếu theo các quy định tại thời điểm các dự án này được công nhận COD ngày 31/12/2020, không yêu cầu văn bản CCA là điều kiện tiên quyết để công nhận COD.

“Nếu ngày vận hành thương mại của 173 dự án năng lượng tái tạo bị điều chỉnh hoặc thu hồi, hậu quả kinh tế sẽ vô cùng nghiêm trọng, vì việc điều chỉnh ngày vận hành thương mại sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá FIT. Việc giảm giá FIT do thu hồi hoặc điều chỉnh ngày vận hành thương mại có thể dẫn đến việc xóa bỏ gần như toàn bộ giá trị vốn chủ sở hữu của các dự án năng lượng này, đe dọa hơn 13 tỷ USD đầu tư và tạo ra tín hiệu tiêu cực không chỉ đối với các nhà đầu tư hiện tại mà còn ảnh hưởng đến các nhà đầu tư tiềm năng trong tương lai tại Việt Nam”, vị này nói thêm.

Mặt khác, theo Quyết định số 39/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về các dự án điện gió và Quyết định số 13/2020/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về các dự án điện mặt trời, điều kiện để được công nhận COD chỉ bao gồm: Hoàn thành thử nghiệm ban đầu của nhà máy điện và các trang thiết bị đấu nối; được cấp giấy phép hoạt động điện lực và thống nhất về chỉ số công tơ để bắt đầu thanh toán. Hơn nữa, yêu cầu phải có văn bản CCA khi xin cấp giấy phép hoạt động điện lực chỉ mới được đưa vào tại Thông tư số 10/2023/TT-BCT của Bộ Công thương (có hiệu lực ngày 9/6/2023).

“Các chấp thuận COD là do Tập đoàn Điện lực Việt Nam ban hành, các nhà đầu tư không có thẩm quyền chấp thuận COD. Vì vậy, chúng tôi kiến nghị nên bảo lưu ngày COD ban đầu và giá mua điện FIT đã thỏa thuận theo hợp đồng mua bán điện cho các dự án này, và yêu cầu Tập đoàn Điện lực Việt Nam thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng”, nhà đầu tư chia sẻ.

Theo tìm hiểu, có gần 30% dự án điện sạch bị ảnh hưởng có sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài đến từ Châu Âu (Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ, Vương quốc Anh) và Châu Á (Ấn Độ, Nhật Bản, Philippines, Singapore, Thái Lan, Trung Quốc). Ước tính, tổng giá trị lên tới 4 tỷ USD. Họ đã phân tích và lập luận, văn bản CCA là vấn đề pháp lý liên quan đến pháp luật xây dựng không phải là cơ sở pháp lý để từ chối nghĩa vụ thanh toán đối với lượng điện năng đã được EVN tiếp nhận và tiêu thụ theo các hợp đồng mua bán điện đã ký kết.

Trong trường hợp, nếu nhà đầu tư có vi phạm thì cũng chỉ dẫn đến xử phạt hành chính và yêu cầu khắc phục hậu quả (nếu áp dụng), chứ không làm thay đổi các điều kiện COD. Do đó, việc áp dụng hồi tố yêu cầu mới này đối với các dự án đã đạt COD từ nhiều năm trước là đang đi ngược với nguyên tắc không được áp dụng hồi tố của Luật Đầu tư năm 2020.

Hơn nữa, việc đề xuất áp dụng hồi tố ngày COD, bằng cách xác định điều kiện hưởng FIT dựa trên ngày cấp văn bản CCA, thay vì ngày COD ban đầu, là phi logic, không phù hợp, gây lo ngại sâu sắc trong cộng đồng nhà đầu tư. Nếu áp dụng, có thể dẫn đến thiệt hại tương ứng với gần 100% vốn chủ sở hữu của các dự án bị ảnh hưởng, khiến họ đối mặt với nguy cơ vỡ nợ.

Một nhà đầu tư điện mặt trời chia sẻ điều khiến họ bức xúc là, trước ngày 31/10/2021, hoàn toàn không có quy định pháp lý nào bắt buộc phải có văn bản CCA để được áp dụng giá FIT. Hợp đồng mua bán điện giữa EVN và các nhà đầu tư cũng không đề cập đến văn bản CCA là điều kiện tiên quyết. Mãi đến ngày 21/4/2023, Bộ Công thương mới ban hành Thông tư số 10/2023/TT-BCT, quy định thủ tục nghiệm thu và bắt buộc có văn bản CCA – nghĩa là sau khi mọi chính sách khuyến khích FIT đã hết hiệu lực.

“Vậy, có hợp lý hay không khi dùng một văn bản ban hành sau để hồi tố cho hàng trăm dự án trước đó, và gạt họ ra khỏi quyền lợi hợp pháp đã được định hướng rõ ràng?”, nhà đầu tư đặt vấn đề.

Không thể quên rằng, thời điểm 2019-2021 là giai đoạn dịch COVID-19 bùng phát, cả nước bị phong tỏa suốt nhiều tháng theo các chỉ thị giãn cách xã hội. Việc nghiệm thu, kiểm tra công trình gần như bị đình trệ. Các nhà đầu tư phải “chạy nước rút” trong khi thế giới bị “đóng băng” vì giãn cách, phong tỏa, không có bất kỳ hướng dẫn quy trình chính thức nào từ cơ quan quản lý, trong khi thiết bị và nhân lực đều khan hiếm, chi phí tăng vọt.

Chính trong điều kiện như thế, nhiều dự án vẫn kịp đóng điện, vận hành thương mại – điều đáng được khuyến khích, thay vì bị trừng phạt bằng những hồi tố đầy rủi ro. Song, nhà đầu tư kêu doanh thu của họ giảm mạnh vì EVN cắt giảm sản lượng mua điện từ 20-30%; dòng tiền bị nghẽn họ không đủ khả năng trả nợ ngân hàng đúng hạn mà còn bị giam tiền bán điện, dẫn tới mất thanh khoản.

Quan trọng hơn, nhà đầu tư cho biết họ mất niềm tin vào chính sách – điều nguy hiểm hơn cả mất vốn. Vì không ai dám đầu tư lâu dài trong một môi trường mà “quy định thay đổi theo thời tiết”. Do đó, nếu không tháo gỡ kịp thời, hệ quả không chỉ nằm ở con số hàng chục tỷ USD vốn bị mắc kẹt, mà còn là sự hụt hơi chiến lược trong chuyển dịch năng lượng quốc gia. Điện sạch không thể trở thành “nạn nhân” của sự thiếu thống nhất giữa các bộ ngành và sự chậm trễ từ phía đơn vị mua điện.

“Chính sách không thể hồi tố, đặc biệt trong lĩnh vực có vốn đầu tư lớn và thời gian thu hồi dài. Ngành điện không thể né trách nhiệm bằng cách đẩy gánh nặng pháp lý về phía doanh nghiệp. Điện sạch là xu thế sống còn, không phải “cuộc chơi thử nghiệm” của thủ tục”, đại diện một nhà đầu tư điện sạch phàn nàn.

III. NGUY CƠ “CHẢY MÁU” NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO

Trong cuộc đua chuyển dịch năng lượng, Việt Nam từng là “hiện tượng” của Đông Nam Á khi chỉ trong vòng 3 năm (2019-2021), hàng chục GW điện mặt trời và điện gió được đưa vào vận hành, trong đó phần lớn đến từ nỗ lực đầu tư của doanh nghiệp trong nước.

Thế nhưng đến nay, khi guồng quay tăng trưởng năng lượng tái tạo bị chững lại, chính sách giá điện chậm đổi mới, hàng loạt doanh nghiệp nội đang phải đối mặt với vòng xoáy áp lực, thậm chí buộc phải rút lui khỏi các dự án mà họ dày công phát triển. Một thực trạng đang âm thầm diễn ra, nếu không có giải pháp kịp thời, sẽ dẫn tới sự “chảy máu” chủ quyền năng lượng tái tạo vào tay nhà đầu tư ngoại.

Theo thống kê từ các tổ chức độc lập và báo cáo ngành, gần 60% các dự án năng lượng tái tạo tại Việt Nam là do các nhà đầu tư trong nước phát triển độc lập. Họ là những người tiên phong dấn thân vào thị trường đầy rủi ro, từ khi chưa có quy hoạch rõ ràng, chưa có chính sách tín dụng ưu đãi, và phải “tự bơi” với gánh nặng tài chính lẫn pháp lý.

Họ cũng chính là lực lượng góp công lớn vào “kỳ tích” đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia có tốc độ phát triển năng lượng sạch nhanh nhất khu vực. Thế nhưng, khi chính sách bắt đầu thay đổi – từ cơ chế giá FIT cố định sang đàm phán, từ ưu đãi ban đầu sang cơ chế phức tạp thì chính những doanh nghiệp ấy lại đang chịu thiệt thòi nặng nề nhất.

Bài 2: Cơ chế, thủ tục “trói chân” năng lượng sạch

Nếu không kịp thời hành động, Việt Nam có thể đánh mất lợi thế chiến lược về năng lượng và cả vị thế doanh nghiệp nội ngay trên sân nhà. Đã đến lúc cần “thương” đúng – thương sớm – và thương thật lòng với những người đã đi đầu cho một Việt Nam xanh, độc lập và bền vững.

Hiện có hàng loạt dự án điện gió và mặt trời với tổng công suất gần 4.700MW đang rơi vào cảnh “dở dang” – không được hưởng giá FIT cũ, cũng chưa đàm phán xong giá chuyển tiếp mới. Trong khi đó, chính sách giá tạm chỉ áp ở mức 50-70% giá khung, khiến nhiều nhà đầu tư nội “không sống nổi” với chi phí đầu tư đã bỏ ra.

Không ít nhà đầu tư năng lượng tái tạo chia sẻ, giá bán điện không đủ bù chi phí vận hành, chứ chưa nói tới hoàn vốn hay sinh lời. Thêm vào đó, hàng loạt thủ tục “hành chính hóa” như: Giấy phép bổ sung, văn bản CCA, công nhận COD… khiến tiến độ đàm phán giá với EVN bị đình trệ kéo dài, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất – tài chính của nhà đầu tư.

Theo tìm hiểu của phóng viên và một số nhà đầu tư năng lượng tái tạo chia sẻ, một thực trạng đáng lo ngại là nhiều nhà đầu tư nội đã phải bán bớt hoặc bán toàn bộ cổ phần dự án cho nhà đầu tư nước ngoài, thực tế nhiều thương vụ sang tay đã xảy ra.

Không thể phủ nhận nguồn lực và kinh nghiệm của các nhà đầu tư nước ngoài, nhưng điều đáng nói là họ đang “gặt lúa” sau khi doanh nghiệp nội đã “gieo mạ” – xây dựng quy hoạch, giải phóng mặt bằng, hoàn tất pháp lý. Nếu xu hướng này tiếp diễn, "chủ quyền" năng lượng tái tạo của Việt Nam rất có thể sẽ rơi vào tay các tập đoàn ngoại quốc.

Theo các nhà đầu tư, việc phát triển năng lượng tái tạo không chỉ là bài toán môi trường hay an ninh năng lượng, mà còn là cơ hội khẳng định bản lĩnh của doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi giá trị năng lượng toàn cầu. Do đó, các nhà đầu tư tha thiết kiến nghị Đảng, Chính phủ, Bộ Công thương và các cơ quan có thẩm quyền cần cập nhật giá FIT/chuyển tiếp ở mức hợp lý – đủ để đảm bảo tính khả thi tài chính cho doanh nghiệp nội.

Các nhà đầu tư cũng kiến nghị tối giản hóa thủ tục đàm phán và công nhận giá điện – đặc biệt là với các dự án đã hoàn thành, chờ phát điện; có cơ chế bảo vệ và ưu tiên doanh nghiệp trong nước – tránh tình trạng “chảy máu dự án” ra nước ngoài. Bên cạnh đó, họ cũng kiến nghị đưa năng lượng tái tạo vào các gói tín dụng xanh, ưu đãi lãi suất để hỗ trợ đầu tư nội duy trì dòng tiền; đồng thời tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho mua bán, sáp nhập (M&A) trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, tránh biến các dự án nội thành “mồi ngon” trên bàn đàm phán quốc tế.

Theo các nhà đầu tư, nếu không kịp thời hành động, Việt Nam có thể đánh mất lợi thế chiến lược về năng lượng và cả vị thế doanh nghiệp nội ngay trên sân nhà. Đã đến lúc cần “thương” đúng – thương sớm – và thương thật lòng với những người đã đi đầu cho một Việt Nam xanh, độc lập và bền vững.

Có thể nói, dù muốn hay không, điện mặt trời và điện gió (điện sạch) đã và đang trở thành một xu thế không thể đảo ngược, năng lượng tái tạo đã từng là nguồn hút vốn đầu tư nhất, được kỳ vọng sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, song bước ngoặt tưởng là khởi đầu cho một kỷ nguyên xanh đã bất ngờ chững lại từ năm 2021, khi các rối rắm pháp lý và thay đổi cơ chế chính sách bắt đầu xuất hiện. Đến nay, các rắc rối vẫn diễn ra mà chưa có hồi kết khiến cả Nhà nước và nhà đầu tư đều phải đau đầu tìm cách giải quyết.

LOẠT BÀI VIẾT: ĐỪNG ĐỂ LÃNG PHÍ NGUỒN ĐIỆN SẠCH

Bài 1: Năng lượng tái tạo, con đường tất yếu

Bài 3: Quyết liệt gỡ nghẽn, không để lãng phí nguồn lực

Bài 2: Cơ chế, thủ tục “trói chân” năng lượng sạch

Bài viết: THÀNH NHÂN