Mùa khô 2019-2020: Khô hạn, thiếu nước sẽ diễn ra trên diện rộng
Dòng chảy thiếu hụt
Theo Trung tâm Dự báo KTTV Quốc gia, hiện nay, trên các sông suối ở khu vực Bắc Bộ lượng dòng chảy đang thiếu hụt từ 20-80% so với trung bình nhiều năm (TBNN); các sông ở khu vực Trung Bộ, Tây Nguyên thiếu hụt từ 30-50%, có sông thiếu hụt trên 60%. Các hồ chứa hồ thủy điện vừa và lớn trên toàn quốc đều không đạt mực nước dâng bình thường.
Ông Vũ Đức Long, Phó Giám đốc Trung tâm Dự báo KTTV Quốc gia thông tin, tổng dung tích các hồ chứa Hòa Bình, Tuyên Quang và Thác Bà chỉ đạt 65-85% dung tích thiết kế; các hồ ở khu vực Bắc Trung Bộ đạt khoảng 70-90%, Trung Trung Bộ đạt khoảng 40-70%, Nam Trung Bộ đạt khoảng 55-82%, khu vực Tây Nguyên đạt khoảng 80-90%.
| |
Nhiều khu vực trên cả nước đối mặt nguy cơ khô hạn trong mùa khô 2019-2020 |
Đối với sông Mê Công, ông Long cho hay, trong mùa lũ năm 2019, lưu lượng dòng chảy vùng thượng nguồn sông Mê Công (phần lưu vực thuộc Trung Quốc) về hạ lưu luôn ở mức thấp hơn TBNN. Hiện mực nước tại các trạm trên dòng chính sông Mê Công ở mức thấp hơn TBNN từ 0,5-3,0m và nhiều trạm đã ở mức thấp nhất trong chuỗi số liệu quan trắc cùng kỳ. Mực nước đầu nguồn sông Cửu Long đang ở mức thấp hơn 0,4-0,7m so với TBNN và tương đương cùng kỳ năm 2015.
Có sông thiếu nguồn nước trên 70%
Với hiện trạng dòng chảy như vậy, Phó Giám đốc Trung tâm Dự báo KTTV Quốc gia nhận định, trong 6 tháng tới, nguồn nước trên các sông suối trên toàn quốc tiếp tục thiếu hụt nhiều. Chính vì vậy, mùa khô năm 2019-2020, tình hình khô hạn, thiếu nước có nguy cơ cao xảy ra tại một số tỉnh khu vực Tây Bắc, Đông Bắc, các tỉnh ven biển Trung Bộ và khu vực Tây Nguyên. Đặc biệt là khu vực Nam Bộ.
Trong đó, ở Bắc Bộ, ông Long dự báo nguồn nước có thể thiếu hụt từ 20 – 40% so với TBNN tập trung trong tháng 12/2019 và tháng 1/2020. Khu vực Trung Bộ, Tây Nguyên nguồn nước cũng tiếp tục thiếu hụt từ 30-60%, một số sông thiếu hụt trên 70%. Đặc biệt, tại một số sông ở ven biển Trung Bộ khả năng xuất hiện mực nước thấp nhất lịch sử.
Đánh giá dòng chảy trên sông Mê Công về ĐBSCL từ tháng 12/2019-2/2020 là rất hạn chế (khả năng thiếu hụt từ 30-45% so với TBNN), chuyên gia khí tượng thủy văn cho rằng, tổng lượng nước về ĐBSCL sẽ thiếu hụt so với TBNN khoảng 3,5 tỷ m3.
“Từ tháng 12/2019 đến tháng 2/2020 sẽ xảy ra thiếu nước và xâm nhập mặn ở ĐBSCL ở mức sớm hơn, sâu hơn và gay gắt hơn so với TBNN”, ông Long cảnh báo.
Cần chủ động cập nhật thông tin
Trước nguy cơ về vấn đề thiếu hụt mưa, thiếu hụt dòng chảy trong mùa lũ trên các lưu vực sông toàn quốc và sông Mê Công nói riêng, ngay từ các tháng đầu mùa lũ năm 2019, Tổng cục KTTV đã chỉ đạo Đài KTTV Nam Bộ, các Đài KTTV thuộc khu vực ĐBSCL thường xuyên quan trắc, theo dõi và liên tục cập nhật nhận định diễn biến tình hình khí tượng, thủy văn, khả năng xảy ra hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn trong mùa khô năm 2019- 2020 ở các vùng trên cả nước; đặc biệt là tình hình xâm nhập mặn khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Trên có sở đó, triển khai công tác điều tra khảo sát đo mặn sớm hơn cũng như chủ động trong công tác giám sát, dự báo, cảnh báo sớm thiên tai. Trong các bản tin dự báo mùa của Trung tâm Dự báo KTTV quốc gia, Đài KTTV khu vực và các Đài KTTV tỉnh liên tục có các thông tin cảnh báo về nguy cơ thiếu nước và xâm nhập mặn.
Theo ông Long, các bản tin này đã được tăng cường ban hành 1 tháng/lần (theo quy định 2 tháng/lần). Các thông tin nhận định về hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn cũng được gửi kịp thời đến Ban chỉ đạo Trung ương về PCTT, Tổng cục Phòng chống thiên tai, các cơ quan ở Trung ương, địa phương và các cơ quan truyền thông.
Để chủ động ứng phó với tình hình khô hạn, thiếu nước có thể xảy ra trong thời gian tới, ông Long khuyến cáo chính quyền và người dân những nơi có khả năng chịu ảnh hưởng của thiên tai thường xuyên cập nhật thông tin qua các bản tin cảnh báo thiên tai của Trung tâm Dự báo KTTV Quốc gia.
Đặc biệt, không chủ quan trước các hiện tượng thiên tai xảy ra, không nên so sánh thiên tai nào là cần quan tâm và thiên tai nào là không cần quan tâm. Chủ động cập nhật các bản tin dự báo thời tiết, khí hậu và các hiện tượng cực đoan phục vụ việc ra quyết sách ứng phó với thiên tai và chỉ đạo sản xuất.
Ngoài ra, cần phổ biến, tăng cường kiến thức cho cán bộ quản lý và người dân về thiên tai, hạn hán và các giải pháp ứng phó. Thực hiện các giải pháp ứng phó và giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra.