Lừa bạn gái mua đất để chiếm đoạt gần 1 tỷ đồng

Công an quận Hoàng Mai đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Trung Ngọc (sinh năm 1979; trú tại thị trấn Sóc Sơn, huyện Sóc Sơn, TP Hà Nội) về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Công ty Cổ phần YourTV tiếp tục bị tố lừa đảo bằng hình thức góp vốn Cảnh báo: Mạo danh CSGT "phạt nguội" để lừa đảo Hà Nội: Bác sĩ "rởm" lừa rao bán căng tin trong Bệnh viện 108

Trước đó, ngày 9/12/2019, chị Đ.H.T (SN 1986; trú tại Hoàng Mai) đến Công an quận Hoàng Mai trình báo về việc bị đối tượng Nguyễn Trung Ngọc lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Theo đơn trình báo, trước đây chị T có có quan hệ tình cảm với Ngọc. Khoảng tháng 3/2019, Ngọc nói với chị T nếu mua mảnh đất nông nghiệp (có diện tích gần 900m2) ở xã Tiên Dương, huyện Đông Anh, Ngọc sẽ chuyển đổi, làm sổ đỏ mang tên chị T với diện tích 250m2 đất thổ cư, 200m2 đất vườn, diện tích còn lại là mang tên người khác. Sau đó Ngọc dẫn chị T đến địa điểm xem đất.

Sau khi xem xong đất, chị T đã chuyển 950 triệu vào tài khoản của Ngọc.

Nhận được tiền, đối tượng đã sử dụng hết và cắt liên lạc với chị T.

Đối tượng Ngọc
Đối tượng Ngọc

Căn cứ vào tài liệu điều tra, ngày 19/5, Công an quận Hoàng Mai đã bắt giữ Nguyễn Trung Ngọc về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Hiện Công an quận Hoàng Mai đang tiếp tục điều tra, xử lý đối tượng theo quy định.

Liên quan đến vụ việc, theo Điều 174 quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đối tượng Ngọc có thể phải đối mặt với 3 khung hình phạt cao nhất của tội danh này là: từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân theo điểm a, khoản 4 do số tiền Ngọc đã chiếm đoạt là 1 tỷ đồng.

Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

d) Tái phạm nguy hiểm;

đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

g) (được bãi bỏ)

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

b) (được bãi bỏ)

c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

b) (được bãi bỏ)

c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Hoa Thành
Phiên bản di động