14 tuổi cùng đồng bọn trộm cắp, cướp giật hơn 10 vụ
Theo thông tin của Công an huyện Hoa Lư (Ninh Bình), đơn vị vừa bắt giữ Hồ Xuân Phương Toàn (SN 2006, trú tại phường Bến Thủy, thành phố Vinh, Nghệ An) về hành vi “Cướp giật tài sản”.
Trước đó, nhận được tin báo của người phụ nữ ở huyện Hoa Lư đang điều khiển xe đạp điện thì bị hai nam thanh niên cướp giật chiếc túi xách để ở giỏ xe. (trong túi có gần 700.000 đồng và 1 điện thoại di động trị giá khoảng 4 triệu đồng).
Từ tin báo, Công an huyện Hoa Lư triển khai biện pháp nghiệp vụ và đã bắt giữ Toàn là nghi phạm gây ra vụ án trên.
Bước đầu, Toàn khai do nghiện ma tuý và game nên đã cùng Tuấn (đối tượng đang bỏ trốn) rủ nhau đi trộm cắp, cướp giật tài sản.
Mở rộng điều tra, Toàn khai ngoài vụ cướp giật trên, từ giữa tháng 11/2020 đến nay, đã cùng Tuấn thực hiện 8 vụ trộm cắp, cướp giật tài sản ở Nghệ An, Hà Tĩnh, TP Hà Nội và Ninh Bình.
Đối với những trường hợp như của Toàn, Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định như sau:
Về tuổi chịu trách nhiệm hình sự:
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. -2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.” (Điều 12).
Về tội trộm cắp tài sản:
1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm: (a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; (b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; (c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; (d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; (đ) Tài sản là di vật, cổ vật. -2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: (a) Có tổ chức; (b) Có tính chất chuyên nghiệp; (c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; (d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; (đ) Hành hung để tẩu thoát; (e) Tài sản là bảo vật quốc gia; (g) Tái phạm nguy hiểm. -3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: (a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; (b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh. - 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: (a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên; (b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. -5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng." (Điều 173).
ảnh minh họa |
Như vậy, Toàn đủ 14 tuổi nên chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường hợp này, theo như lời khai Toàn đã có hành vi trộm cắp tài sản, vì vậy Toàn có thể đã phạm tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự, hình phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. Vậy, tội phạm Toàn phạm phải thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự nên Toàn không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Tuy nhiên, trường hợp này Toàn vẫn sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự về hành vi trộm cắp tài sản. Cụ thể Toàn sẽ phải trả lại tài sản đã lấy, trường hợp tài sản không còn, Toàn sẽ phải bồi thường một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đã lấy. Đồng thời phải bồi thường cho người bị mất một khoản chi phí hợp lý là lợi ích gắn liền với việc khai thác, sử dụng tài sản, theo thoả thuận giữa nạn nhân và Toàn.
Về tội cướp giật tài sản
Theo quy định tại Điều 171 Bộ luật hình sự 2015 thì:
"Điều 171. Tội cướp giật tài sản
1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 3 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;
đ) Hành hung để tẩu thoát;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;
g) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
h) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
i) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
...
Theo đó, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi sẽ chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng trong đó có tội cướp giật tài sản.
Đối với hành vi cướp giật tài sản thông thường thì chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự theo Khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự. Nếu có tình tiết quy định từ khoản 2 Điều 171 trở đi mà khung hình phạt đối với hành vi cướp giật tài sản từ 7 đến 15 năm thì người này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Do đó, đối với trường hợp người 14 tuổi phạm tội cướp giật tài sản ở mức độ ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng thì sẽ không truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trường hợp đối tượng 14 tuổi như Toàn, phạm tội cướp giật tài sản chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính và giao về cho gia đình, địa phương quản lý giáo dục hoặc áp dụng biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng.